Con người trong không gian 3 chiều có
thể xác định bởi 3 đại lượng căn bản: tuổi,
cân nặng, tinh thần, ký hiệu là điểm A (t, m, n),
là giao điểm của 3 đường vuông góc trong hệ trục toạ độ
3 chiều.
- Có tuổi đời t ≥ 0. Đơn vị: Thời gian (năm, tháng, ngày, giờ) và các hệ số.
- Có khối lượng m ≥ 0. Đơn vị: kg và các hệ số.
- Có Tinh thần: Đặc trưng bởi n là số từ ngữ dùng trong một ngày, số n thể
hiện tâm tĩnh lặng hoặc căng thẳng. n ≥
0.
- Điểm gốc toạ độ là O (O,O,O).
1. Con người thay đổi liên tục trên trục toạ độ, đúng quy luật “Vô thường” không có gì tồn tại mãi.
- Tuổi tăng đều tự nhiên, rồi chấm dứt.
- Thân tăng khối lượng từ từ, rồi giảm từ từ.
2. Có một điểm
đặc biệt là điểm gốc O (0,0,0):
Điểm
gốc O (0,0,0): Không khối lượng, không thời gian, không ngôn ngữ. Sự đặc biệt ở
chỗ điểm O có mặt trong mọi điểm: O È A= A tức là điểm O có mặt trong mọi điểm của không gian 3 chiều. Như vậy tồn tại
không gian chân không ký hiệu { O (0,0,0)} cùng song hành với không gian 3 chiều.
Vậy chúng ta đang sống trong 2 không gian song hành:
không gian Hữu hình (m>0) và không gian vô hình (m = O). Hai không gian này
có 1 điểm giao nhau là điểm O(O,O,O).
3. Không gian gốc {O} không phải không có gì.
Trong chân không vẫn có năng
lượng không do bức xạ vật chất phát ra. NASA xác nhận lịch sử hình thành vũ trụ, thửa ban đầu chưa
có vật chất thì vũ trụ đã có năng lượng, gồm các hạt ánh
sáng, m=O, t=O, n=O. Đây chính là không
gian gốc {O} là không gian Chân không lượng tử.
* Vậy có 2 nguồn năng lượng khác nhau, cùng vận hành trong vũ trụ:
- Nguồn năng lượng bức xạ từ vật chất: Học thuyết Lượng
tử Mak Plan (Đức), đã
phát hiện các hạt ánh sáng không
khối lượng,
chứa năng lượng, được bức xạ từ vật chất, gọi là hạt photon,
lượng tử, quang tử. Bức xạ năng lượng được Einstein tính bằng
công thức E=mc2. Bức xạ vật chất có khởi đầu và kết thúc theo sự tồn tại của vật chất Năng lượng có khắp mọi nơi, muôn hình muôn vẻ như:
ánh sáng mặt trời, ánh sáng tinh tú, đèn điện, mắt ta thấy ngay. Có ánh sáng mắt
không thấy, thì máy Kirlian có thể chụp ảnh ánh sáng hào quang phát ra từ một vật
thể, con người. Bức xạ vật chất là năng lượng thô, có loại tốt, và có loại rất xấu với
cơ thể (ví
dụ: Phóng xạ, tia tử ngoại, sóng điện từ, sóng máy di động …). Khoa học chỉ sử
dụng nguồn năng lượng thô, nhưng không loại trừ hết tác hại của năng lượng xấu,
đã tạo ra ô nhiễm môi trường. Các nhà khoa học thế giới đang nỗ lực hết mình để
làm sáng tỏ một vấn đề hóc búa nhất của khoa học: Còn trên 90% năng lượng tối (dak
energy) và vật chất tối, khoa học chưa biết. Cái khoa học đã biết chỉ là 4%
(thông báo NASA). Do đó kiến thức khoa học chưa đủ cho đời sống an lành, nhưng
bị ngộ nhận có vai trò chủ thể trong vũ
trụ.
- Nguồn
năng lượng vi tế không do bức xạ vật chất phát ra . Năng lượng vi tế có sẵn từ buổi
ban đầu vũ trụ, khi chưa có vật chất, nó không có khởi đầu, không có kết thúc. Từ
cái một ban đầu này sáng tạo nên vũ trụ, gọi là năng lượng gốc. Năng
lượng
gốc vi tế mịn nhất, đi qua mọi vật, đến khắp mọi nơi vô giới hạn (ánh
sáng vô lượng quang vô lượng thọ). Các hạt mịn vi tế nhất đi qua mọi
vật chất, nên máy móc không thể nắm giữ định danh được. Cái duy nhất có
đủ nhạy
bén nhận biết Năng lượng gốc, là Tâm thanh tịnh (chứng minh ở mục 4). Cổ
nhân Phương Đông luyện tâm thanh tịnh, đã biết rõ năng lượng gốc, đặt
tên là
năng lượng Prana, có vai trò chủ thể vũ trụ, có sức mạnh vĩ đại, sáng
tạo và nuôi
dưỡng toàn bộ sự sống vũ trụ 15 tỷ năm qua. Ai làm chủ Prana sẽ chủ sức
khỏe và
tinh thần của mình. Có nhiều phương pháp sử dụng năng lượng gốc.
Cách sử dụng 2
nguồn năng lượng khác nhau, tạo nên 2 ý thức hệ khác nhau:
-
Khoa học thực nghiệm: Sử dụng năng lượng thô, hoàn toàn phụ thuộc vào vật chất,
máy móc. Chỉ có phát minh sáng tạo trong giới hạn năng lượng thô, trong vòng 200 năm đã làm thay
đổi môi trường sống, hư hỏng nguồn nước, không khí.
Vì không có khái niệm rõ ràng về Tâm con người, khoa học không bao giờ định
danh được năng lượng gốc, phá hỏng môi trường sống.
-
Khoa học tâm linh: Dựa
vào tâm, luyện
tâm thanh tịnh, giảm bớt sự phụ thuộc vật chất, để cảm thụ Năng lượng
gốc, làm chủ sức khỏe, tinh thần, nhận thức rõ môi trường sống. Tâm linh
chân chính là đỉnh cao Trí tuệ, hòa hợp quy luật Thiên nhiên, chấm dứt
mê tín dị đoan và cuồng tín.
Con
đường duy nhất tránh thảm họa diệt vong của nhân loại,
là thay đổi nhận thức biết sử dụng Năng lượng gốc. Sống hài hòa cả hai
nguồn năng lượng, mới có hạnh phúc bền vững, và bảo vệ môi trường sống.
* Niết bàn : Đức
Phật
Thích Ca
nói: Đức Phật A Di Đà là ánh sáng vô lượng vô biên, tỏa chiếu khắp mười
phương mà không bị ngăn cách (Kinh A Di Đà). Phật A
Di Đà được
gọi là Đức Từ phụ, là bậc sinh thành chúng ta. Chúng ta được
sinh ra từ ánh sáng A Di Đà vô lượng
quang, vô lượng thọ.
Phật A Di Đà được định danh là Ánh sáng vô lượng quang, vô lượng thọ, chính là Năng lượng gốc.Nếu là năng lượng thô, sẽ bị vật
chất hấp thụ hết, không thể xuyên thấu
đến khắp mọi nơi vô giới hạn . Đức từ phụ là ánh sáng Niết bàn, thì LINH HỒN chúng
ta là vầng sáng thanh nhẹ sinh ra từ cõi sáng Niết bàn. Trong tiềm thức chúng
ta có sẵn niềm tha thiết với Cội nguồn. Tâm càng yên tĩnh càng thấy rõ Niết
bàn, thấy sức sống vô cùng mạnh mẽ, lạc quan và năng lượng từ bi tràn ngập cuộc
đời họ.
Tôi đã chứng minh
không gian gốc {O
(0,0,0)}, là không gian Chân không lượng tử đang
hiện hữu, trùng hợp cõi sáng A Di Đà- Niết
bàn. Niết
bàn là một cõi sáng Vật lý có thật, không phải ảo tưởng Tôn giáo.
Trên hệ trục tọa độ không gian 3 chiều thể hiện một số quy luật mà Đức Phật và cổ
nhân đã
minh triết thấy:
- Luật Vô thường: Mọi sự vật luôn luôn vận động không ngừng thay đổi, không có gì tồn
tại mãi. Con người liên tục thay đổi từng giây, nên mọi sự chấp thủ bám víu là
vô nghĩa. Vô thường vận hành tất cả.
- Luật Vô ngã: Con người không đơn độc, có ảnh hưởng năng lượng và thông tin khắp vũ trụ, không có
cái tôi cô đơn riêng biệt. Vô ngã ở khắp mọi nơi.
- Luật Nhân Quả:
Trên hệ trục tọa độ cho thấy vị trí Tâm
Tâm an lạc tiến gần tới Cội nguồn, hấp thụ năng lượng sạch
thì khỏe mạnh. Sức khỏe là Nhân quả do Tâm tạo
ra.
- Luật Yên lặng (Thiền định): Chỉ có Tâm tĩnh lặng hội nhập Cội nguồn, tiếp nhận năng lượng sạch
có sức sống mãnh liệt.
4. Hội nhập
Niết bàn:
Trên tọa độ không gian 3 chiều, muốn hội nhập Niết Bàn phải đi đến giao điểm
gốc O.
- Thân có khối lượng m > 0, thân không quay về gốc
O.
-
Tuổi t > 0, tuổi không quay về gốc O.
- Tâm có thể quay về gốc O. Khi n = O là trạng
thái tâm tĩnh lặng không suy diễn, không bồn chồn vội vã, ( t=O ), tâm
không tham vọng ( m=O ). Đây là
trạng thái Tâm không.
Trong
3 đại lượng đặc trưng con người, chỉ có Tâm có thể quay về gốc O, là trạng thái
tâm tĩnh lặng,
không còn chấp níu hình tướng, khi đó các huyệt đạo trên cơ thể mở rộng hấp thụ năng lượng gốc Prana, tức là Tâm
quay đầu hồi hướng về 0 là thấy Niết bàn. Như vậy mỗi người có đầy đủ khả năng hưởng Niết
bàn tại thế, khi
đạt được tâm không.
Sống
trong không gian 3 chiều, muốn hội nhập Niết bàn cần thêm chiều hồi hướng của Tâm quay
về gốc 0, là chiều thứ tư. Niết bàn là không gian 4 chiều, cùng
song hành không gian 3 chiều, có một chiều cong gập lại của Tâm quay về chạm vào gốc 0. Chỉ duy nhất một yếu tố thực hiện được chiều quay về 0, là
Tâm. Tâm
không - là Niết bàn. Mọi phương tiện khoa học đều có khối lượng m
> 0 không thể đi vào chiều thứ tư, nên
không thấy được Niết bàn. Trong
muôn loài sinh sống, chỉ có Tâm con người có khả năng tri
giác được Niết bàn.
5. Sự hình thành Tâm:
Phật
giáo quan niệm rất sâu sắc về quá trình hình thành phẩm chất của Tâm, là sựtổng hoà của ý thức và tàng thức.
Tàng
thức
(alaya) là phần sâu thẳm nhất của tâm, là kho chứa các hạt
giống hay là các chủng tử (bija) nằm yên trong tàng thức. Các chủng tử
có sẵn từ lúc ra đời ( truyền kiếp ). Tàng thức chứa vô vàn chủng
tử xấu, tốt, tài năng, năng khiếu, thiện, ác, truyền thống cha,
mẹ, dòng họ, truyền thống địa phương, truyền thống dân tộc, đều ngủ ngầm trong
tàng thức. Môi trường phát ra các thông tin tốt, hoặc xấu, đi vào não bộ, tưới vào
tàng thức, đánh thức các chủng tử cùng loại ( tốt hoặc xấu) nảy nở thành ý thức, rồi hành động.
Phẩm chất của Tâm
được hình thành do môi trường bên ngoài và truyền thống bên trong (chủng tử) quyết định.
Môi trường tốt, là nơi có nhiều người tốt,
bạn tốt, thày tốt, nhiều người từ bi. Nơi tạo ra Tâm tốt.
Môi trường xấu tạo ra Tâm xấu. Đó là
nơi có nhiều tệ
nạn xã hội, nhiều người gian dối, tham lam, hèn nhát…môi trường xấu bén rễ
vào tâm rất nhanh, lan truyền tập thể thì khó nhận diện tâm xấu. Vì vây môi trường
ảnh hưởng đặc biệt quan trọng với người tu tập, và trẻ em đang học làm người.
Vai trò của di truyền: Trong tàng thức có
đủ thứ tốt xấu từ kiếp trước. Nhóm chủng tử nào mạnh nhất, thì tâm
sẽ nảy nở theo khuynh hướng trội của tàng thức. Khi gặp môi trường thuận
lợi Tâm sẽ nảy nở năng khiếu, cá tính của mỗi người,
Xã
hội là môi
trường hình
thành tâm, nên tâm có xu hướng kết dính, bám chặt vòng xoáy xã hội quyết
không rời. Người có trí
tuệ cao, chủng tử tốt, môi
trường tốt (có thày bạn tốt), mới hướng
lái được tâm rời khỏi vòng xoáy xã hội. Điều này xảy ra
khi tâm được giác ngộ chân lý.
6.
Các bước
phát triển của Tâm:
- Tâm viên ý mã: Là tâm của người gắn
bó với vòng xoáy xã hội, do xã hội tạo dựng tâm ý kéo đi không biết dừng như ngựa hoang, luôn vẽ vời ảo tưởng tham lam,
suy nghĩ thôi thúc triền miên không dứt, gọi là tâm si mê. Tâm si mê bám chặt vòng xoáy xã hội, căng thẳng toan tính chiếm
hữu, không được thì sinh phiền não, còn việc hữu ích cho bản thân thì tâm sẽ chống đối bằng rất nhiều lý sự.
Tâm si mê lừa đảo bạn, đưa bạn đến tận cùng vực thẳm đau khổ, bệnh tật, tội
lỗi, mà tâm vẫn khen mình giỏi quá, mình đúng quá, người ta sai.
Tâm si mê bị điều khiển bởi Kết sử (samyojana): Kết là ràng buộc, kết
dính. Sử là hành sử, hành động. Kết sử là sự ràng buộc hành động, sai sử, dục vọng.
Kết sử tạo thành từ những thói quen, hoặc khối kết
năng lượng xấu là ô trược thôi thúc làm
ngay không suy nghĩ.
Kết sử mạnh
nhất là tham sân si, nghiệp lực, mê tín. Điều rất nguy hiểm kết sử làm mất ý thức tỉnh táo, có hành động vội vã, sai
lầm, tội ác, hoặc cuồng tín không biết dừng. Nhiều thày tà đạo lợi dụng điểm yếu
tham sân si của tâm, đã dùng pháp thuật vong âm bùa ngải sai khiến tâm. Vì vậy
cần tu luyện phá bỏ tham sân si mê tín, mới tránh được kết sử. Môi trường xấu
phát kết sử, nơi đó đầy tai ương, bất trắc. Môi trường tốt sẽ diệt kết sử. Giải
hết ô trược sẽ tan rã kết sử, tâm mới yên. Còn kết sử thì còn vọng tâm , thiền
ít hiệu quả.
Có nhiều loại kết sử tổn hại đạo đức: hiềm
tỵ, ích
kỷ, ganh ghét, gian dối, tham tiền, mê
gái, mê ăn, nghiện rượu, thuốc lá, ma túy, cờ bạc… Có loại kết sử tổn hại sức khỏe: quen ăn chơi, lười lao động,
nghiện vi tính, nghiện chơi game, nghiện điện thoại di động…
Có loại kết sử tổn hại
sự tu tập: kiêu
ngạo, nóng nảy, mê tín, có vong âm, bùa mê, mê quyền năng,
mê pháp thuật…Còn
những thứ này không tu tập được.
Có
kết sử là tạo nghiệp lực, ví như sống trong nhà lửa. Lúc đầu lửa cháy từ từ, không thấy
rõ. Khi ngọn lửa tham, sân, si bùng cháy, người ta đau đớn khôn cùng, trầm uất, gào thét, đập phá, tự
tử, có thể đốt cháy
hết phước đức đã có.
Với Tâm nhiễm trược thì không ai
thoát khỏi nghiệp lực và bệnh tật,
tăng phiền não, không tri giác được Niết bàn.
- Tâm thư thái: Nhờ học hỏi sự sáng suốt, Tâm bắt đầu buông bỏ những việc vô ích và tội lỗi. Tâm
đã đổi hướng tìm
đường học hỏi buông bỏ phiền não, thói xấu, sống thư thái.
- Tâm
thanh tịnh: Tâm thư thái
và không
còn mưu sự hưởng lợi riêng, đã
hòa vào niềm vui của đại chúng
- Tâm tịnh định: Trạng thái thiền định sâu, nhập định, tiếp nhận năng lượng
và thông tin vũ trụ. Gần Niết bàn.
- Tâm Niết bàn: Tâm không nhiễm trược, hết
nghiệp lực, tâm soi sáng khắp toàn vũ trụ, mang lại nhiều bài học kinh nghiệm
quý báu cho chúng sinh,
như Đức Phật.
7. Sau
cái chết tâm về đâu ? Đức Phật nói:
“Trong giờ phút ấy, tâm ý người kia sẽ an trú trong định,
không hề điên đảo tán loạn do đó người ấy được vãng sanh ngay về cõi Cực lạc”. Để Tâm an trú trong định
không đơn giản mong muốn mà được. Trải qua tu luyện rất vững vàng, lúc
đó Tâm không bị mê sảng tán loạn do bệnh tật, ô trược, phiền não.
Trí
tuệ khi còn sống gọi là Tâm, sau cái chết gọi là vong. Trong xã hội sử dụng nhiều
danh từ đồng nghĩa với Vong như: Vong hồn, vong linh, hương linh, hương hồn,
linh hồn,
hồn ma,
vong ma, người âm… Về bản chất là vầng ánh sáng thanh nhẹ có cấu trúc trí tuệ, sinh
ra từ Niết bàn. Cấu trúc này chỉ Tạo hóa mới rõ, con người không thể tranh cãi
đúng sai vì con người không làm ra linh hồn. Linh hồn sinh ra từ ánh sáng mịn
vi tế, nên máy móc không định danh được. Song mỗi người đã thực chứng về vong,
hoặc nạn nhân của vong
Khi thân thể tan rã, còn lại năng lượng,
là vầng ánh sáng đặc trưng Trí tuệ mỗi người, sáng hay tối khác nhau. Năng lượng
không bao giờ mất đi, chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác (đinh luật bảo
toàn năng lượng). Những linh hồn thanh nhẹ sẽ về đến Cội nguồn, hoặc tái kiếp
vào thân mới tiếp tục học hỏi tiến hóa thanh nhẹ hơn. Có người lúc còn sống
không học được điều hay, bị ô trược kết vào, khiến vong nặng nề bức xúc, tham
luyến luẩn quẩn ở cõi trần, không siêu thoát, trở thành ma thèm khát, tìm cách
nhập vào thân xác người khác để thỏa mãn dục vọng, trả thù…tiếp tục lạc đường,
tạo thêm nghiệp, phiền não hơn.
Cùng là người trong cõi trần, khi chết sẽ về tầng
năng lượng khác nhau. Người thành thần tiên ở cõi thanh tịnh, người thành ma quỷ
ám ảnh cõi trần, bị xua đuổi “như đuổi tà”, hoặc bị các thày tà đạo bắt giữ sai
khiến (làm âm binh).
Vì vậy lúc còn sống cần tu luyện để trí tuệ thanh thản sáng suốt, không
u mê, năng nề ô trược, mới
có Hạnh phúc bền vững, cả khi sống và sau khi chết.
Quan hệ Thân và Tâm rất đặc biệt: Tâm là chủ thể tạo nên mọi sự kiện trong cuộc đời. Thân thể là bộ máy tinh xảo của tạo hóa, có khả năng thanh lọc ô trược, làm cho tâm trở
nên sáng suốt và an lạc. Không có tâm An lạc trong một cơ thể đầy nhiễm trược Thân thể là đền đài thiêng liêng để tâm phát tác tính bản thiện. Thuần phục được thân
tâm, là đạt được Niết bàn tại thế.
Thân
thể là đền đài thiêng liêng để tâm phát tác tính bản thiện. Thuần phục được thân tâm, là đạt được Niết
bàn tại thế.
|