Sự kiện tiêu biểu
Tin mới
Showing posts with label Trí tuệ của người xưa. Show all posts
Showing posts with label Trí tuệ của người xưa. Show all posts
Trong môi trường văn hóa nào cũng vậy thì con người cũng rất là quan trọng. Vì việc đối nhân xử thế ra sao cũng rất ảnh hưởng đến sau này. Tôi xin được dẫn một vài đoạn về cuộc đời của Ngụy Diên. Đây là câu chuyện lịch sử dựa trên chính sử (không phải là tam quốc diễn nghĩa), về án xử Ngụy Diên làm phản. Cho tới bây giờ người ta vẫn còn đang tranh luận về việc thật sự Ngụy Diên có làm phản không. Nhưng dựa vào câu chuyện đó người ta muốn rút ra được bài học: nội bộ là phải đoàn kết, không nên chia rẽ, có thắc mắc lỗi lầm nào cần phải được làm sáng tỏ ngay chứ nếu không để lâu tất loạn.
Ngụy Diên ban đầu làm tướng ở Kinh châu thời Lưu Biểu. Ông có sức khỏe, dũng mãnh hơn người và khéo quan tâm tới quân sĩ; được cấp dưới kính trọng nhưng bạn bè lại không ưa. Về sau theo phò tá Lưu Bị.
Năm 228, Gia Cát Lượng mang quân đánh Ngụy, họp với các tướng lĩnh chọn đường đánh vào lãnh thổ Tào. Ngụy Diên bèn hiến kế với Gia Cát Lượng xin được thống lĩnh 5000 tinh binh, lương thảo đầy đủ, đi đường núi khó thì chỉ trong 10 ngày có thể đánh đến Trường An.
Tuy nhiên Gia Cát Lượng cho rằng kế này của Ngụy Diên quá mạo hiểm, dễ tổn hại binh sĩ nên không nghe theo, mà chủ định đi theo đường bằng phẳng cho an toàn. Lúc này Ngụy Diên đã ấm ức.
Trong những lần ra quân khác, Ngụy Diên thường đề nghị được lãnh một cánh quân độc lập tác chiến theo đường khác nhưng không được chấp nhận. Vì vậy ông thường trách Gia Cát Lượng nhát gan không dám theo kế nên tài năng dũng khí của ông bị bỏ phí.
Ngụy Diên có tài, giỏi rèn luyện quân sĩ nhưng có tính tự kiêu nên các tướng thường tránh xung đột với ông. Chỉ riêng Dương Nghi thường ra mặt đối đầu với Ngụy Diên. Hai người xung khắc tới mức cứ ngồi với nhau là cãi nhau. Có lần Ngụy Diên tức giận rút kiếm ra chĩa vào Dương Nghi. Lúc đó Phí Y phải đứng ra hòa giải hai người. Tình trạng bất hòa giữa hai tướng lớn tới mức bên Đông Ngô cũng biết chuyện. Tôn Quyền từng nói về hai người và tiên liệu rằng khi Gia Cát Lượng mất cả hai người sẽ cùng làm loạn.
Năm 234, ông lại theo Gia Cát Lượng đi đánh Ngụy. Ngụy Diên dẫn quân làm tiên phong đi trước, đóng trại cách xa trại của Gia Cát Lượng. Mùa thu năm đó, Gia Cát Lượng ốm nặng trong doanh trại, bí mật sai người gọi Dương Nghi, Phí Y và Khương Duy đến, sắp đặt việc rút quân, theo đó Dương Nghi đi trước, Khương Duy cùng Ngụy Diên đi đoạn hậu, nếu Ngụy Diên không chịu thì cứ mặc, đại quân cứ rút về.
Gia Cát Lượng qua đời, Dương Nghi sai Phí Y đến báo tin và thăm dò Ngụy Diên. Ngụy Diên không tán thành rút quân mà muốn ở lại tiếp tục đánh Ngụy, đồng thời tỏ ý không phục tùng mệnh lệnh của Dương Nghi. Ông sai thủ hạ đi theo dõi cử động của Dương Nghi. Khi biết tin các tướng đang chuẩn bị rút về theo kế hoạch của Gia Cát Lượng, Ngụy Diên nổi giận, quyết định hành động trước. Đường xá trong Thục vốn hiểm trở phải bắc ván thành đường nhỏ để hành quân gọi là sạn đạo; Ngụy Diên phá hỏng các con đường sạn đạo đi về Hán Trung để ngăn Dương Nghi rút lui.
Dương Nghi thấy vậy bèn dâng biểu về triều, nói Ngụy Diên làm phản. Ngụy Diên cũng dâng biểu về triều nói Dương Nghi làm phản. Quan trong triều cho rằng chỉ có Ngụy Diên đáng nghi ngờ, còn Dương Nghi sẽ không làm phản.
Dương Nghi thấy đường sạn đạo bị phá, bèn sai quân chặt cây, làm cầu. Quân Dương Nghi tiến gần tới chỗ Ngụy Diên đóng quân. Dương Nghi lệnh cho Vương Bình đi tiên phong đánh Ngụy Diên. Vương Bình chỉ trích hành động và kích động quân Ngụy Diên đào ngũ. Kết quả quân Ngụy Diên bỏ đi gần hết.
Ngụy Diên cô thế đành cùng con trai và mấy người thân tín bỏ chạy về Hán Trung. Dương Nghi sai Mã Đại mang quân đuổi theo, giết chết ông. Mã Đại mang thủ cấp về cho Dương Nghi. Nghi trông thấy thủ cấp Ngụy Diên, bèn trút tức giận, đứng bật dậy đá mạnh vào thủ cấp và chửi rủa.
Hậu chủ Lưu Thiện chuẩn theo lời thỉnh cầu của Dương Nghi và Phí Y, khép Ngụy Diên tội mưu phản và ra lệnh tru di tam tộc nhà Ngụy Diên. Còn Dương Nghi trở về, không lâu sau vì bất mãn không được thay Gia Cát Lượng làm thừa tướng, tỏ ra oán hận cũng bị cách chức và tự vẫn (năm 235).
Ngụy Diên được đánh giá là viên tướng có tài năng, dũng cảm; là một trong những trụ cột của nước Thục. Bình sinh chỉ có Gia Cát Lượng khống chế được Ngụy Diên. Sau khi Khổng Minh qua đời, Ngụy Diên không chịu phục tùng tướng khác, nhất là Dương Nghi vốn hay ra mặt đối kháng với ông. Ngụy Diên không muốn hàng Ngụy, chỉ muốn đón đánh giết Dương Nghi, trở thành người thay Gia Cát Lượng làm người chỉ huy tối cao cuộc Bắc phạt và tiếp tục công việc này. Ông vẫn luôn ấm ức vì kế sách của mình không được dùng nên muốn thực hiện được nó.
Ngoài ra, có ý kiến nêu cần xem lại tính xác thực của mệnh lệnh khi lâm chung của Khổng Minh. Khi còn sống Gia Cát Lượng không kịp sắp đặt việc rút quân, chính Dương Nghi đã đặt ra di mệnh này và không ai trong quân Thục có thể kiểm chứng rằng đó là lời Khổng Minh hay Dương Nghi.
Chốt lại câu chuyện là lời cảnh báo về vấn đề nhân sự con người. Ngụy Diên được đánh giá là không làm phản nhưng chỉ tại vì đấu đá quyền lực với Dương Nghi mới mang họa vào thân. Cả hai tướng đều cùng chung chí hướng phò Thục Hán diệt Ngụy, nhưng cuối cùng cả hai lại đấu đá, nghi kị ám hại lẫn nhau dẫn đến kết cục buồn. Trong môi trường công ty cũng vậy, có những lúc sẽ có đấu đá nội bộ với nhau và sẽ làm cho công ty bị suy yếu. Vì vậy người chủ, người sếp cần phải nhìn ra vấn đề nội bộ và giải quyết ổn thỏa. Cần phải công bằng cho cả hai phía, phải ứng xử kịp thời và nhanh lẹ giải quyết vấn đề. Chứ nếu không lại sẽ có thêm một Ngụy Diên và Dương Nghi nữa xuất hiện. Một chết trước và một sẽ chết ngay sau đó.
Tài liệu tham khảo về cuộc đời Ngụy Diên, Wikipedia.
Huy Bường
Tất nhiên ai cũng biết và đều đã nghe tên qua Gia Cát Lượng. Một nhân tài kiệt xuất, nổi danh từ thời tam quốc tới ngày nay. Nếu Quan Vũ đại diện cho sức mạnh và sự trung nghĩa, thì Gia Cát Lượng đại diện cho tài trí, trí tuệ. Khi còn ở núi Ngọa Long, ông đã viết ra bộ sách "Tướng Uyên" cách để chọn ra người tài, và những tiêu chí để đánh giá con người như "Chí, Biến, Thức, Dũng, Tính, Liêm, Tín". Đây là 7 tiêu chí lớn để đánh giá và chọn người của Gia Cát Lượng. Tôi xin được tổng hợp và trích dẫn lại.
Nghĩa là hỏi họ về điều phải lẽ trái để xem xét chí hướng của họ. Muốn trọng dụng một người, trước tiên phải biết được ý chí, lập trường của người ấy ra sao. Nếu như đối phương lẫn lộn giữa điều phải lẽ trái hoặc mơ hồ giữa cái đúng cái sai, lập lờ trắng đen thì quyết không thể giao phó trọng trách. Bởi lẽ con người này không vững vàng, không kiên định về lập trường, dễ đổi trắng thay đen và dễ phản trắc.
Chí hướng là động lực thúc đẩy con người tiến lên. Người không có chí hướng thì không thể làm nên việc lớn. Người không có chí hướng chẳng khác gì người đi đêm không có trăng sao, người đi biển không có ngọn hải đăng. Bởi vậy, biết rõ được chí hướng của con người thì sẽ đánh giá được ý chí của họ. Không chỉ Trung Quốc, tại nhiều nước trên thế giới, phần lớn những nhà chính trị, nhà chiến lược, nhà quân sự nổi tiếng đều có chí hướng ngay từ khi tuổi còn nhỏ.
Nghĩa là đưa ra nhiều câu hỏi, lý lẽ dồn họ vào thế đường cùng để xem khả năng ứng biến đối phó với các tình huống của họ. “Biến” ở đây là chỉ khả năng ứng phó, năng động. Khi chọn người, Gia Cát Lượng thường dồn dập đưa ra những lý lẽ, những tình huống để dồn họ vào thế đường cùng, thế bí nhằm xem xét khả năng đối phó, ứng biến của đối phương.
Người có khả năng ứng biến giỏi, nhất là các tướng cầm quân khi bị dồn vào thế đường cùng, họ ắt sẽ biết cách ứng phó, biết chuyển bại thành thắng, biết mở cho mình con đường sống. Người xưa có câu: “Sơn trùng thủy phục nghi vô lộ. Liễu âm hoa minh hựu nhất thôn”. Nghĩa là trong thế đường cùng bốn bề sông núi tưởng không lối thoát, nhưng người biết ứng biến, năng động vẫn có thể mở ra lối thoát tới nơi rực rỡ đầy hoa.
Nghĩa là dùng mưu kế của mình để tham khảo những mưu kế, sách lược của đối phương, thông qua đó có thể đánh giá những kiến thức của đối phương
Nghĩa là đặt ra những tình huống gian nguy, khó khăn để đánh giá sự dũng cảm của đối phương, nhất là đối với những tướng cầm quân ngoài mặt trận. Thời cổ đại, hai tiêu chuẩn rất quan trọng đối với tướng lĩnh là “Trung, Dũng”, tức là trung thành và dũng cảm. Người Trung Quốc xưa có câu “Hiệp lộ tương phùng dũng giả thắng”, nghĩa là hai đối thủ gặp nhau trên con đường độc đạo, người dũng cảm sẽ chiến thắng.
Khi lựa chọn hiền tài, Gia Cát Lượng thường đưa ra những nghịch cảnh, khó khăn gian nguy để thử thách sự dũng cảm của họ, bởi lúc lâm nguy tinh thần dũng cảm vô cùng quan trọng. Khắc phục một khó khăn có thể dễ dàng nhưng khắc phục 10 hay 100 khó khăn, gian nguy liên tiếp đòi hỏi con người phải có tinh thần dũng cảm vô song. Một nhà triết học người Đức từng nói: “Chỉ có con người nào đã từng trải qua sự giày vò của địa ngục thì mới có sức mạnh để xây dựng được thiên đường”.
Gia Cát Lượng cho đối phương uống rượu say để đánh giá tính tình, thực tâm của họ. Rượu là chất kích thích, khi bị say thì vỏ đại não bị tê dại, con người khi ấy bị mất lý tính, không còn ý thức được những hành vi của mình. Nên lời nói của họ không chút giấu giếm mà rất thực lòng. Từ đó Gia Cát Lượng đánh giá đúng thực chất tâm tính của đối phương.
Nghĩa là dành cho họ nhiều tiền tài, bổng lộc, thậm chí hứa giao cho trọng trách để đánh giá sự liêm khiết hay lòng tham lam của họ. Bản tính của con người thường có máu tham, hám lợi, tham tiền, nhất là những người làm quan và giữ trọng trách lớn. Gia Cát Lượng cho rằng, một người liêm khiết thường có những đặc điểm như: Trung thành vô hạn, Làm việc liêm khiết vô tư, Thấu hiểu nỗi khổ của dân chúng, Chú trọng tiết kiệm, Không hám giàu sang, không mê tửu sắc, Tự khép mình vào kỉ luật.
Khi làm Thừa tướng nước Thục, Gia Cát Lượng đưa ra nhiều đạo luật nghiêm khắc, nhưng không ai phàn nàn oán giận ông nửa lời. Bởi bản thân ông rất gương mẫu, liêm khiết. Nước Thục khi đó có nhiều quan thanh liêm và tướng tài, như Vận Tưởng Uyển, Đổng Hòa, Lưu Ba, Đổng Doãn, Dương Hồng. Thực tế cũng cho thấy, cổ kim đông tây, người nào vượt lên sự cám dỗ của tiền tài danh vọng thường là những quan thanh liêm, được lòng dân và góp phần làm cho đất nước hưng thịnh.
Tức là giao việc cho họ để xem lời họ hứa so với thực tế làm việc ra sao, từ đó đánh giá chữ “Tín” của họ. Gia Cát Lượng cho rằng: “Ngôn nhi vô tín, bất tri kỳ khả dã”, tức là một người chỉ biết nói suông không đi đôi với việc làm, là người không có chữ tín
Bởi vậy, có câu: “Thính kỳ ngôn, Quan kỳ hành”, tức nghe họ nói không đủ mà phải xem họ làm như thế nào. “Quốc vô tín bất hưng, nhân vô tín bất lập”, một đất nước mà không có chữ tín với các nước thì không thể hưng thịnh, một người không có chữ tín với mọi người thì không thể lập nghiệp.
Tôi xin được nhận xét và ý kiến của bản thân. Chí là chí hướng, động lực của người. Nếu là người có chí hướng như Lưu Bị có chí hướng khôi phục lại nhà Hán. Nên khi đi đâu, làm gì ông cũng điều nghĩ về việc phải khôi phục. Còn Quan Vũ, Trương Phi, Gia Cát Lượng chí hướng theo Lưu Bị nên họ sẽ rất trung thành. Biến là ứng biến, phản ứng linh hoạt, nhanh nhạy. Khi cầm quân thì cần phải ứng biến để có thể chuyển từ bại thành thắng, nắm những cơ hội có lợi. Nếu cứ cứng nhắc theo một chiến thuật thì chắc chắn sẽ bị "lộ bài" và dễ dẫn đến thất bại. Thức là kiến thức, chiến lược. Làm việc gì cũng cần phải có kiến thức thì mới có thể làm việc được. Dũng là dũng cảm, sự can đảm. Làm việc gì mà cũng sợ thì chắc chắn khó làm được việc lớn. Tính là tính tình, tính cách con người. Gia Cát Lượng bật mí việc chuốc rượu sẽ bộc lộ được tính cách con người. Hèn chi mấy sếp nhà ta bắt mấy thằng đệ uống nhiều chắc là do muốn thử tính cách thằng này có ổn không. Liêm là liêm chính, ngay thẳng. Nếu người không liêm chính sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy sau này. Nếu gặp người ngay thẳng như Quan Vũ thì quá tốt. Chữ cuối cùng tín có nghĩa là chữ tín, lòng tin. Nếu nói suông mà không làm thì có thể đoán được rằng người này không hề trọng chữ tín. Ngoài ra, ông bà ta có câu "Một lần bất tín, vạn lần bất tin" quả không sai. Qua trên là 7 tiêu chí trong việc chọn người của Gia Cát Lượng. Nên nhớ đây là những tiêu chí để chọn thôi, chứ nếu chọn người tài mà phải đủ những tiêu chí trên thì quả rất khó. Vì vậy cũng cần phải biến đôi chút.
Nguồn: Bài viết "Giải mã 7 cách chọn người của Gia Cát Lượng" trên kienthuc.net.vn
Bài viết "7 cách nhìn người của Gia Cát Khổng Minh" trên blog.zin.
“Vấn chi dĩ thị phi nhi quan kỳ Chí”
Đem điều phải trái hỏi họ để biết “chí hướng”Nghĩa là hỏi họ về điều phải lẽ trái để xem xét chí hướng của họ. Muốn trọng dụng một người, trước tiên phải biết được ý chí, lập trường của người ấy ra sao. Nếu như đối phương lẫn lộn giữa điều phải lẽ trái hoặc mơ hồ giữa cái đúng cái sai, lập lờ trắng đen thì quyết không thể giao phó trọng trách. Bởi lẽ con người này không vững vàng, không kiên định về lập trường, dễ đổi trắng thay đen và dễ phản trắc.
Chí hướng là động lực thúc đẩy con người tiến lên. Người không có chí hướng thì không thể làm nên việc lớn. Người không có chí hướng chẳng khác gì người đi đêm không có trăng sao, người đi biển không có ngọn hải đăng. Bởi vậy, biết rõ được chí hướng của con người thì sẽ đánh giá được ý chí của họ. Không chỉ Trung Quốc, tại nhiều nước trên thế giới, phần lớn những nhà chính trị, nhà chiến lược, nhà quân sự nổi tiếng đều có chí hướng ngay từ khi tuổi còn nhỏ.
“Cùng chi dĩ từ biện nhi quan kỳ Biến”
Lấy lý luận dồn họ vào thế bí để biết “biến thái”Nghĩa là đưa ra nhiều câu hỏi, lý lẽ dồn họ vào thế đường cùng để xem khả năng ứng biến đối phó với các tình huống của họ. “Biến” ở đây là chỉ khả năng ứng phó, năng động. Khi chọn người, Gia Cát Lượng thường dồn dập đưa ra những lý lẽ, những tình huống để dồn họ vào thế đường cùng, thế bí nhằm xem xét khả năng đối phó, ứng biến của đối phương.
Người có khả năng ứng biến giỏi, nhất là các tướng cầm quân khi bị dồn vào thế đường cùng, họ ắt sẽ biết cách ứng phó, biết chuyển bại thành thắng, biết mở cho mình con đường sống. Người xưa có câu: “Sơn trùng thủy phục nghi vô lộ. Liễu âm hoa minh hựu nhất thôn”. Nghĩa là trong thế đường cùng bốn bề sông núi tưởng không lối thoát, nhưng người biết ứng biến, năng động vẫn có thể mở ra lối thoát tới nơi rực rỡ đầy hoa.
“Tư chi dĩ kế mưu nhi quan kỳ Thức”
Lấy mưu trí trị họ để trông thấy “kiến thức”Nghĩa là dùng mưu kế của mình để tham khảo những mưu kế, sách lược của đối phương, thông qua đó có thể đánh giá những kiến thức của đối phương
“Cáo chi dĩ nan nhi quan kỳ Dũng”
Nói cho họ những nỗi khó khăn để xét “đức dũng”Nghĩa là đặt ra những tình huống gian nguy, khó khăn để đánh giá sự dũng cảm của đối phương, nhất là đối với những tướng cầm quân ngoài mặt trận. Thời cổ đại, hai tiêu chuẩn rất quan trọng đối với tướng lĩnh là “Trung, Dũng”, tức là trung thành và dũng cảm. Người Trung Quốc xưa có câu “Hiệp lộ tương phùng dũng giả thắng”, nghĩa là hai đối thủ gặp nhau trên con đường độc đạo, người dũng cảm sẽ chiến thắng.
Khi lựa chọn hiền tài, Gia Cát Lượng thường đưa ra những nghịch cảnh, khó khăn gian nguy để thử thách sự dũng cảm của họ, bởi lúc lâm nguy tinh thần dũng cảm vô cùng quan trọng. Khắc phục một khó khăn có thể dễ dàng nhưng khắc phục 10 hay 100 khó khăn, gian nguy liên tiếp đòi hỏi con người phải có tinh thần dũng cảm vô song. Một nhà triết học người Đức từng nói: “Chỉ có con người nào đã từng trải qua sự giày vò của địa ngục thì mới có sức mạnh để xây dựng được thiên đường”.
“Túy chi dĩ tửu nhi quan kỳ Tính”
Cho họ uống rượu say để dò “tâm tính”Gia Cát Lượng cho đối phương uống rượu say để đánh giá tính tình, thực tâm của họ. Rượu là chất kích thích, khi bị say thì vỏ đại não bị tê dại, con người khi ấy bị mất lý tính, không còn ý thức được những hành vi của mình. Nên lời nói của họ không chút giấu giếm mà rất thực lòng. Từ đó Gia Cát Lượng đánh giá đúng thực chất tâm tính của đối phương.
“Lâm chi dĩ lợi nhi quan kỳ Liêm”
Đưa họ vào lợi lộc để biết tấm lòng “liêm chính”Nghĩa là dành cho họ nhiều tiền tài, bổng lộc, thậm chí hứa giao cho trọng trách để đánh giá sự liêm khiết hay lòng tham lam của họ. Bản tính của con người thường có máu tham, hám lợi, tham tiền, nhất là những người làm quan và giữ trọng trách lớn. Gia Cát Lượng cho rằng, một người liêm khiết thường có những đặc điểm như: Trung thành vô hạn, Làm việc liêm khiết vô tư, Thấu hiểu nỗi khổ của dân chúng, Chú trọng tiết kiệm, Không hám giàu sang, không mê tửu sắc, Tự khép mình vào kỉ luật.
Khi làm Thừa tướng nước Thục, Gia Cát Lượng đưa ra nhiều đạo luật nghiêm khắc, nhưng không ai phàn nàn oán giận ông nửa lời. Bởi bản thân ông rất gương mẫu, liêm khiết. Nước Thục khi đó có nhiều quan thanh liêm và tướng tài, như Vận Tưởng Uyển, Đổng Hòa, Lưu Ba, Đổng Doãn, Dương Hồng. Thực tế cũng cho thấy, cổ kim đông tây, người nào vượt lên sự cám dỗ của tiền tài danh vọng thường là những quan thanh liêm, được lòng dân và góp phần làm cho đất nước hưng thịnh.
“Kỳ chi dĩ sự nhi quan kỳ Tín”
Hẹn công việc với họ để đo “chữ tín” Tức là giao việc cho họ để xem lời họ hứa so với thực tế làm việc ra sao, từ đó đánh giá chữ “Tín” của họ. Gia Cát Lượng cho rằng: “Ngôn nhi vô tín, bất tri kỳ khả dã”, tức là một người chỉ biết nói suông không đi đôi với việc làm, là người không có chữ tín
Bởi vậy, có câu: “Thính kỳ ngôn, Quan kỳ hành”, tức nghe họ nói không đủ mà phải xem họ làm như thế nào. “Quốc vô tín bất hưng, nhân vô tín bất lập”, một đất nước mà không có chữ tín với các nước thì không thể hưng thịnh, một người không có chữ tín với mọi người thì không thể lập nghiệp.
Tôi xin được nhận xét và ý kiến của bản thân. Chí là chí hướng, động lực của người. Nếu là người có chí hướng như Lưu Bị có chí hướng khôi phục lại nhà Hán. Nên khi đi đâu, làm gì ông cũng điều nghĩ về việc phải khôi phục. Còn Quan Vũ, Trương Phi, Gia Cát Lượng chí hướng theo Lưu Bị nên họ sẽ rất trung thành. Biến là ứng biến, phản ứng linh hoạt, nhanh nhạy. Khi cầm quân thì cần phải ứng biến để có thể chuyển từ bại thành thắng, nắm những cơ hội có lợi. Nếu cứ cứng nhắc theo một chiến thuật thì chắc chắn sẽ bị "lộ bài" và dễ dẫn đến thất bại. Thức là kiến thức, chiến lược. Làm việc gì cũng cần phải có kiến thức thì mới có thể làm việc được. Dũng là dũng cảm, sự can đảm. Làm việc gì mà cũng sợ thì chắc chắn khó làm được việc lớn. Tính là tính tình, tính cách con người. Gia Cát Lượng bật mí việc chuốc rượu sẽ bộc lộ được tính cách con người. Hèn chi mấy sếp nhà ta bắt mấy thằng đệ uống nhiều chắc là do muốn thử tính cách thằng này có ổn không. Liêm là liêm chính, ngay thẳng. Nếu người không liêm chính sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy sau này. Nếu gặp người ngay thẳng như Quan Vũ thì quá tốt. Chữ cuối cùng tín có nghĩa là chữ tín, lòng tin. Nếu nói suông mà không làm thì có thể đoán được rằng người này không hề trọng chữ tín. Ngoài ra, ông bà ta có câu "Một lần bất tín, vạn lần bất tin" quả không sai. Qua trên là 7 tiêu chí trong việc chọn người của Gia Cát Lượng. Nên nhớ đây là những tiêu chí để chọn thôi, chứ nếu chọn người tài mà phải đủ những tiêu chí trên thì quả rất khó. Vì vậy cũng cần phải biến đôi chút.
Nguồn: Bài viết "Giải mã 7 cách chọn người của Gia Cát Lượng" trên kienthuc.net.vn
Bài viết "7 cách nhìn người của Gia Cát Khổng Minh" trên blog.zin.
Huy Bường
Tổng hợp những câu danh ngôn của Khổng Tử.
Người không có chữ tín sẽ chẳng làm nên việc gì.
Sự nghiệp chớ nên cầu mong không có chông gai, trắc trở vì không có chúng thì ý chí sẽ không kiên định.
Có kiến thức thì không nghi ngờ, có lòng nhân thì không ưu tư, có dũng cảm thì không sợ hãi.
Đừng mong người khác thuận theo ý mình vì nếu được người khác thuận ý sẽ tất sinh tự kiêu.
Làm việc đừng mong dễ thành công. Vì nếu dễ thành công thì bản thân thường kiêu ngạo.
Không nhìn điều sai trái, không nghe điều xằng bậy, không nói điều sai, không làm điều càn quấy.
Điều mình không thích thì đừng làm cho người khác. Đối với quê hương, gia đình nên tránh gây thù, chuốc oán.
Người không có nhận thức sâu xa sẽ có ngày sẽ gặp phiền muộn, âu lo.
Biết có lỗi mà không sửa thì đó chính là lỗi.
Mọi thứ đều từ hư vô mà ra.
Dùng thì đừng nghi, nghi thì đừng dùng.Ngồi bàn tiệc đừng ra vẻ anh hùng vì rượu đã làm cho nhiều người gục ngã.
Đừng lo mình không có chức vị, chỉ lo mình không đủ tài để nhận lấy chức vị.
Gỗ mục không thể khắc.
Muốn biết người phải nghe họ nói.
Dụng nhân như dụng mộc.
Càng lên cao, chân trời càng xa, tầm mắt càng rộng.
Những câu trên là những danh ngôn của Khổng Tử. Chỉ vài câu trên đã cho chúng ta thấy được những cách nhìn hay, đáng để học hỏi. Như câu "Dụng nhân như dụng mộc" để nói về cách dùng người. Nghề mộc cần phải xem loại gỗ nào mới có thể sử dụng thích hợp được. Gỗ nào thích hợp cho việc xây nhà, dựng thuyền; gỗ nào thích hợp cho việc tạo đàn; gỗ nào thích hợp cho thủ công mỹ nghệ,... Dùng người cũng vậy. Không phải là thấy vài khuyết điểm của người mà cho rằng người ta vô dụng. Mỗi người có tài riêng, và sẽ phát huy hết tài năng nếu được làm đúng việc. Ngoài ra, những câu nói của ông còn hướng về cách dạy người sống ở đời phải trung chính. Như câu "Không nhìn điều sai trái, không nghe điều xằng bậy, không nói điều sai, không làm điều càn quấy". Phải biết giữ mình, đừng nên tiếp xúc với điều ác, những điều phù phiếm vật chất bên ngoài. Nếu có thì cũng như không nhìn, không nghe thấy, cũng không nói tới và không làm điều xấu.
Nguồn: Bài viết "12 câu nói muôn đời giá trị của Khổng Tử" trên kienthuc.net.vn;
"Bộ ảnh nghệ thuật 10 điều tâm niệm" trên nguoiaolam.net;
Những danh ngôn cổ trên Wikipedia.
Huy Bường
Subscribe to:
Posts (Atom)
© Copyright 2017 Giayphuthientai365, All rights reserved. Liên hệ quảng cáo
SỨC KHỎE | GIẢI TRÍ | LÀM ĐẸP | NẤU ĂN | VIDEO | TÂM SỰ | NGÔI SAO | 12 CUNG HOÀNG ĐẠO
SAO VIET | SAO HAN | QUOC TE | THOI TRANG | CACH LAM DEP | TAM SU PHU NU | TAM SU THAM KIN | HON NHAN | CHUYEN CUA SAO | SAO HOA NGU | TAM SU TINH YEU
Điện thoại: 0906184060
Phạm Văn Sáng, Hóc Môn, TP.HCM.
Email: huybuong@gmail.com