An Trú Trong Giây Phút Hiện Tại

logo
Sự kiện tiêu biểu

Tin mới

Showing posts with label Gop-nhat-loi-vang. Show all posts
Showing posts with label Gop-nhat-loi-vang. Show all posts
Tháng bảy âm lịch ngày gần cạn, ngôi chùa nhỏ gần nhà gửi thư lần chót nhắc các gia đình có hài cốt thân nhân nhớ làm trọn bổn phận làm con.

Thư của chùa nhắc nhở chung, bởi rất nhiều gia đình sau khi gửi hài cốt cha mẹ vào chùa, kể như là trọn bổn phận. Quanh năm có những hương phần bụi bám dầy, không còn thấy rõ mặt người. Thậm chí, có những phần nằm im không ai thăm viếng đến cả chục năm.

Sư ông kể đã có lần, chùa phải kêu gọi bá tánh giúp đỡ, đem hàng trăm hương phần như vậy, chở lên tàu, đưa ra sông làm lễ rãi đi. Những tro bụi còn lại của những người quá cố, quanh năm không còn ai thăm viếng, có cái chuột chạy làm ngã, đổ bể, không có ai  dựng lại. Tro rãi trên sông, bay đi theo gió, đôi khi có thể còn tự do và đỡ buồn tủi hơn năm im ở góc nào đó để gánh vác cho vinh danh hiếu tử cho người còn sống.

Tất cả rồi chỉ là tro bụi, thậm chí là tro bụi trong trí nhớ của người đang sống. Phật dạy mọi thứ thật vô thường nhưng có chứng kiến, mới thấy vô thường không chỉ ở nhục thân, mà vô thường đeo dẳng trong đời người, tạo ra muôn vàn vô nghĩa cho đến khi ta giật mình nhận ra.

Trong những câu chuyện võ hiệp kỳ tình phiêu lưu của nhà văn Kim Dung, thường những cái kết truyện của ông luôn làm người đọc nao nao, vì nhận ra sau những cuộc bể dâu, ngay cả người đạt được tất cả cũng muốn lìa bỏ vì thấy mọi thứ trên cõi nhân gian đều như tro bụi. Vinh quang, tước vị, quyền lợi, tài sản… tất cả như những cái bẫy để con người nhận diện ra mình đê tiện hay hèn hạ mức nào.

Trương Vô Kỵ chỉ mong rõ bỏ mọi thứ, để chỉ được kết thúc cuộc đời vô danh kẻ chân mày cho người đẹp Triệu Minh. Thiên hạ vô địch Dương Quá thì chỉ mong bước ra khỏi nhân gian, mong được sống và chết trong im lặng để không còn nghe tiếng lao xao trần thế. Trong một lần trả lời với báo chí, nhà văn Kim Dung nói rằng trong các mối tình mà ông dựng nên – Dương Quá và Tiểu Long Nữ là đôi danh hiệp mà ông thích thú vì thách thức mọi lề thói và đạo đức giả tạo của nhân gian, vì có sống cho vừa lòng ai, thì cuộc đời cũng như giấc mộng trôi về tro bụi.

Tháng bảy nhắc người ta về hiếu đạo, nhắc người ta rằng mọi thứ về cuộc đời rồi sẽ đến lúc như tro bụi, vô nghĩa. Dẫu vật nài, giành cho được về phần mình, thì rồi cũng về cõi hư vô.

Vua Quang Trung khi lên ngôi Hoàng Đế năm 1788, để thị uy đã quật mộ thân phụ của vua Gia Long rồi vất bỏ xuống sông. Đến năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh giành lại vương quyền, đã quật mộ và nghiền nát hài cốt của anh em Nguyễn Huệ để rửa hận. Lịch sử như một bài hát khôn cùng về cõi người và tro bụi.

Tháng bảy liêu xiêu, nghe người ta nói nhiều về được và mất. Có người buồn vì thấy mất tên trong một bản in, có người mất vì thêm những dấu sắc trong một áng văn của mình.

Nhưng khó mà biết, ai là người được, ai là người mất. Có khi tên không còn được khắc bảng, nhưng được nhớ mãi trong lòng người. Có khi mất một chỗ ngồi tiểu lộ, lại thấy đại lộ thênh thang rộng mở trước mắt mình. Trong bài hát Những gì sẽ mang theo vào cõi chết của Phạm Duy, ông cũng để lại những chú giải về cuộc được mất với đời này: “không đem theo với tôi được giới hạn tiếng anh hùng, tôi không đem theo với tôi được tượng đồng bia đá trắng”.

Kẻ ác có làm tất cả để thoả mãn cho mình, tương lai cũng chỉ là tro bụi. Vạn lý trường thành xây nên bằng khôn xiết bao xương máu dân lành, giờ chỉ là chỗ bán vé vào mua vui cho lũ trẻ. Có những triều đại độc tài, giết chết ai đó chỉ bằng một vài con chữ, rồi ngày sau quyền lực đó chỉ còn là tro bụi, bêu danh cho đời sau phỉ nhổ.

Chuyện kể rằng Tào Tháo đi đánh giặc xa, lương thực không đủ, quân lính oán thán và suy sụp tinh thần. Muốn quân không loạn, Tào Tháo thuyết phục quan giữ kho lương rằng hãy nhận giùm tội tham nhũng, nhưng bù lại sẽ được phát thẻ để vợ con được ăn lộc suốt đời. Ngày quan giữ kho bị chém và tin rằng mình là một anh hùng cứu nước, thì cũng là lúc vợ con của ông được phát thẻ hưởng lộc. Thẻ mua tro bụi ấy, thẻ gì?

Tháng bảy dành cho những giờ phút nghĩ lại. Có thể Sư ông không sai khi tiễn những tro cốt vô danh vào thế giới. Có thể đó là sự giải thoát cuối cùng mà những hương phần đó, vốn đã phải chịu đựng bấy lâu nay cho vỏ bọc hiếu nghĩa của con cái, cho phần còn sót lại, cứ phải bấu víu cuộc đời thường. Tiếng đọc kinh đều đều như lời chúc bình an cho lộ trình mây trắng. Thật an nhiên.

Chúng ta có là tro bụi, hay đang mãi miết đuổi theo tro bụi không?

NS. Tuấn Khanh
LỜI PHẬT DẠY

1- Quán thân bất tịnh.

2- Quán thức ăn bất tịnh.

3- Không say đắm thế gian.

4- Thường nghĩ đến sự chết.

5- Luôn nghĩ đến vô thường.

6- Nghĩ đến đời sống là khổ và vô thường.

7- Luôn nghĩ đến khổ và vô ngã.

CHÚ GIẢI:

Câu thứ nhất Phật dạy: “Quán thân bất tịnh”.

Quán thân bất tịnh là một pháp môn triển khai tri kiến như thật về cơ thể con người. Cơ thể con người uế trược, bất tịnh, hôi thối mà con người thường lầm tưởng cơ thể con người là thanh tịnh, là trong sạch. Vì thế, mọi người đều lao vào tâm sắc dục, tưởng nơi đó trong sạch lắm, nhưng không ngờ nơi đó là nơi bất tịnh và khổ đau nhất, là con đường tái sanh luân hồi cũng tại nơi đó. Cho nên, đức Phật muốn vạch trần một sự thật để mọi người đừng lầm lạc, đừng say mê sắc dục. Vì thế, mục đích quán thân bất tịnh là đối trị tâm sắc dục của con người. Bệnh tâm sắc dục thì trên đời này không ai tránh khỏi. Muốn thoát khỏi bệnh này thì đức Phật dạy chúng ta phương thuốc đối trị, đó là quán thân người nam cũng như người nữ đều bất tịnh, hôi thối, bẩn thỉu, uế trược, gờm nhớp v.v.. Nhờ quán như vậy tâm mới không đắm nhiễm; mới nhàm chán; mới ghê tởm sắc dục; mới xa lìa từ bỏ; mới không còn ham thích giữa nam nữ gần nhau; mới thấu rõ tâm sắc dục mang đến mọi sự khổ đau bất tận. Vì có hiểu như vậy mới đoạn tận tâm sắc dục.

Nếu người nào siêng năng chuyên cần quán tưởng thân bất tịnh đến thấu suốt sự bất tịnh như thật thì chắc chắn tâm sắc dục sẽ bị đoạn tuyệt. Tâm sắc dục đoạn tuyệt thì con đường sanh tử luân hồi mới chấm dứt và không còn tái sinh nữa. Tâm sắc dục đoạn diệt thì người tu mới có đủ đạo lực làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Nếu tâm sắc dục còn dù như đất trong tay ta thì không bao giờ có Tứ Thần Túc và Tam Minh.

Con đường tu theo Phật giáo để đạt được bốn thần lực giải thoát; để chứng đạt chân lí thì tâm sắc dục phải được đoạn trừ tận gốc. Nếu tâm sắc dục chỉ còn một chút như trên đã nói thì con đường giải thoát ấy không bao giờ dẫn đến mục đích tối hậu, cứu kính hoàn toàn.

Cho nên, sự tu tập để diệt trừ tâm sắc dục là một điều cần thiết cho con đường tu hành giải thoát của Phật giáo.

Câu thứ hai Phật dạy: “Quán thức ăn bất tịnh”.

Quán thức ăn bất tịnh là một phương pháp triển khai tri kiến hiểu biết về thực phẩm bất tịnh như thật. Đúng vậy thực phẩm bất tịnh là một sự thật, không ai còn chối cãi được. Nếu quán thực phẩm bất tịnh biết rõ như thật thì sẽ đối trị được tâm ưa thích ăn uống, ưa thích chạy theo dục lạc về ăn uống. Thường người ở đời không nhận rõ thực phẩm bất tịnh, thiếu sự sáng suốt nhận định thực phẩm bất tịnh, vì thế họ còn cho thực phẩm là những chất ngon béo, bổ dưỡng cơ thể nên luôn luôn ăn uống để nuôi dưỡng cơ thể cho mập. Họ đâu biết rằng cơ thể này không là họ, là của họ nên họ sai lầm kiến chấp thân này là của họ, là họ, vì thế nên đem hết sức lực của mình ra làm việc để phục vụ cho ăn, ngủ, v.v.. phục vụ như vậy chẳng có ý nghĩa gì cao đẹp cho cuộc sống của mình cả.

Muốn đối trị tâm tham ăn thì phải quán thực phẩm bất tịnh như trên đã nói. Quán thực phẩm bất tịnh như thế nào để nhàm chán, nếu quán thực phẩm bất tịnh sơ sơ không thấu triệt, không thấy thực phẩm bất tịnh như thật thì làm sao tâm chúng ta sanh ra nhàm chán thực phẩm cho được mà không nhàm chán thực phẩm thì làm sao ly tham dục về ăn uống được. Phải không quý vị?

Nhờ quán thực phẩm bất tịnh thâm sâu và thấu triệt sự bất tịnh của thực phẩm như thật thì tâm chúng ta sinh ra nhàm chán thực phẩm. Nhờ đó chúng ta ăn ngày một bữa rất là tự tại an nhiên, không thấy đói khát, không còn thèm ăn uống gì nữa.

Người không quán thực phẩm bất tịnh, khi gặp thực phẩm thì cũng giống như con mèo gặp chuột, tâm sinh ra ham thích ăn thịt, muốn chộp bắt ngay liền, còn người quán thực phẩm bất tịnh sanh ra tâm nhàm chán thực phẩm, khi thấy thực phẩm giống như thấy chất bẩn của người bài tiết, nhờ đó tâm tham ăn bị diệt. Cho nên đức Phật dạy: “người mới tu thì phải quán thực phẩm bất tịnh”, để giữ gìn giới đức ly tham về ăn uống, không bị phạm giới ăn uống phi thời. Quán thực phẩm bất tịnh là một phương pháp tuyệt vời trong Phật giáo. Nhờ đó chúng ta sẽ xa lìa tâm tham đắm ăn uống của mình. Vì thế, người tu sĩ Phật giáo hằng ngày chỉ nên ăn một bữa mà thôi. Sáng chiều thảnh thơi không còn bận tâm lo ăn uống gì cả. Thật là một đời sống nhàn nhã, an vui, thanh thản, yên ổn mà người thế tục không bao giờ có được. Có đúng như vậy không quý vị?

Câu thứ ba Phật dạy: “Không say đắm thế gian”.

Thế gian là một trường danh lợi, tiền tài, vật chất và sắc đẹp cám dỗ mọi người. Vì thế đức Phật khuyên dạy: “Không say đắm thế gian”. Bởi vì trong thế gian có nhiều sự cám dỗ như trên đã nói, sự cám dỗ này dẫn chúng ta vào chỗ khổ đau và khổ đau mãi mãi không biết đường nào ra, nhất là tiếp tục tái sanh luân hồi không bao giờ dứt. Người mới tu tập phải cảnh giác tâm mình, tránh xa những pháp cám dỗ của thế gian, đừng say mê nó, hãy lìa xa nó, hãy từ bỏ nó, hãy đoạn trừ nó v.v.. Nó là ác pháp thường dẫn mọi người đi vào chỗ tối tăm, tội lỗi.

Thế gian là một trường tranh đấu vì danh lợi, vì tiền của tài sản vật chất, vì sắc đẹp phụ nữ cho nên cuộc tranh đấu ấy triền miên bất tận. Mục đích tranh đấu của người thế gian là tranh đấu để sống vì ích kỷ cá nhân, để bảo vệ sự sống của riêng mình, vì thế họ chà đạp lên sự sống của người khác, loài vật khác; tranh đấu để đạt danh lợi hơn mọi người, tức là đạt được quyền uy thế lực; đạt được giàu sang tột cùng, nhà cao cửa rộng, của cải, tiền bạc, châu báu, vàng vòng nhiều; đạt được sắc đẹp; đạt được ăn ngon mặc đẹp, cao lương mỹ vị, hàng lụa đắt tiền, ngủ nghỉ giường cao rộng lớn niệm êm. Đó là sự cám dỗ ngũ dục lạc thế gian mà người đời thường hay dính mắc, vì thế đức Phật dạy: “Không say đắm thế gian”. Người tu sĩ Phật giáo nên lưu ý lời dạy này và thường nhắc tâm: “Không nên say đắm các pháp thế gian”. Nhờ có tác ý như vậy tâm mới luôn luôn thanh thản, an lạc và vô sự. Cho nên tâm còn say đắm thì không bao giờ có sự giải thoát chân thật.

Câu thứ tư Phật dạy: “Thường nghĩ đến sự chết”.

Muốn cho sự tinh tấn siêng năng không biếng trễ trên đường tu tập thì thường quán niệm chết. Thường quán niệm chết cho chúng ta biết rằng: “Ngày nay chúng ta còn sống nhưng ngày mai sẽ chết”. Điều đó chắc chắn trong tất cả chúng ta ai cũng biết, nhưng trong chúng ta nào ai biết được ngày mai phải rời bỏ thế gian này vào lúc nào? Chắc không ai biết. Phải không quý vị?

Vì các pháp vô thường, thân chúng ta cũng vậy, sự vô thường không chờ đợi một ai, một khi nó đã đến thì không từ bỏ một người nào cả. Cho nên, thường quán niệm chết khiến cho chúng ta tinh cần siêng năng tu tập lại càng tinh tấn siêng năng tu tập hơn. Nếu chúng ta không chịu tu tập quán tưởng niệm chết thì sự siêng năng tinh cần mất đi, chỉ để lại cho chúng ta một sự lười biếng, một sự dễ dãi biếng nhác, tu tập cầm chừng lấy có thì sự tu tập chẳng tới đâu cả.

Vả lại, nếu chúng ta không tu tập khi chết rồi còn biết có được thân người nữa hay không? Bởi vậy quán niệm chết rất cần thiết cho người tu theo Phật giáo. Nếu không quán niệm chết thì chúng ta dễ sanh ra tâm dễ dãi, lười biếng thì con đường tu sẽ không bao giờ đạt tới đích giải thoát của Phật giáo.

Cuộc đời tu hành của chúng ta theo Phật giáo nếu không quán niệm chết là chúng ta sẽ sinh tâm lười biếng như trên đã nói, tu cầm chừng, tu lấy có thì một đời tu hành chỉ có hình tướng mà thôi, còn sự giải thoát thì không bao giờ có, đó là một sự thiệt thòi rất lớn.

Câu thứ năm Phật dạy: “Luôn nghĩ đến vô thường”.

Trong thế gian này không có một vật gì là thường hằng bất biến, luôn luôn biến đổi từng phút từng giây, vì vậy sinh, già, bệnh, chết là lẽ đương nhiên của một con người sinh ra trong thế gian này. Nếu chúng ta không thấy các pháp vô thường thì tâm chúng ta dễ sanh ra dính mắc và chấp đắm các pháp, do dính mắc và chấp đắm các pháp nên làm sao tâm chúng ta ly dục ly ác pháp được, không ly dục ly ác pháp được thì làm sao có được sự giải thoát. Không có được sự giải thoát thì chúng ta sống sẽ làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Phải không quý vị?

Vì thế, đức Phật dạy: “Luôn nghĩ đến vô thường”. Luôn nghĩ đến các pháp vô thường thì tâm chúng ta buông xả sạch. Tâm buông xả sạch thì ngay đó là chân lí của đạo Phật; thì ngay đó là một thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự; thì ngay đó là cực lạc, thiên đàng tại thế gian này.

Trong cuộc đời tu hành của chúng ta theo Phật giáo, chỉ cần quán xét hiểu biết và thấu rõ các pháp thật sự là vô thường, là khổ đau. Do các pháp vô thường nên không có pháp nào là ta, không có pháp nào là của ta, không có pháp nào là bản ngã của ta. Nhờ hiểu thấu như vậy chúng ta mới hoàn toàn giải thoát, tuy còn sống trong thế gian, còn sống trong qui luật nhân quả, nhưng đã ra ngoài qui luật nhân qua, tức là ra ngoài vũ trụ, đứng ở một góc trời thênh thang, chẳng còn bị bất cứ một qui luật nào chi phối thân tâm được.

Bởi vậy, “Luôn nghĩ đến vô thường” là lợi ích rất lớn cho kiếp làm người, vì nghĩ đến các pháp vô thường nên tâm chẳng còn dính mắc, chẳng còn sợ hãi buồn rầu thương nhớ v.v.. Đạo Phật chỉ tu tập có bấy nhiêu pháp quán như vậy mà cứu kính giải thoát rõ ràng và cụ thể.

Câu thứ sáu Phật dạy: “Nghĩ đến đời sống là khổ và vô thường”.    

Đời người là vô thường, là khổ đau. Đó là một sự thật mà không thể có ai phủ nhận được. Vì thế chúng ta thường quán xét thì tâm chúng ta sẽ sanh ra nhàm chán. Và khi nhàm chán thế gian thì chúng ta mới có tinh tấn tu hành. Nếu không thấy đời là vô thường là khổ đau thì chúng ta khó mà lìa nó được, mà không lìa các pháp thế gian thì tu hành chẳng đến nơi đến chốn.

Đời sống con người là khổ, là vô thường, đó là một sự thật, nhưng trên đời này có mấy ai hiểu được như vậy. Vì không hiểu được như vậy nên mọi người đều cho đời sống là hằng còn, là hạnh phúc. Cho nên, mọi người lầm tưởng các pháp là thật rồi đua nhau chạy theo ngũ dục lạc: lợi, danh, sắc, thực, thùy, mong đạt cho được nó, nhưng nào ngờ các pháp vô thường, vì các pháp vô thường nên càng chạy theo chúng thì càng gặp nhiều khổ đau. Sống trong đau khổ mà không biết, do đó sống trong tâm điên đảo, tưởng điên đảo, tình điên đảo mà không hay, cứ loanh quanh bám mãi trong tham vọng, chạy theo ngũ dục lạc mà muốn tìm chân hạnh phúc thì làm sao có được. Phải không quý vị? Ngũ dục lạc là ảo ảnh hạnh phúc, là bóng dáng của tâm tham, sân, si. Cho nên, chỉ có những người không thấu rõ đời sống con người là khổ đau, các pháp là vô thường nên mới còn say mê và đắm đuối ham thích chạy theo nó.

Đức Phật xác định: “Con người vì vô minh không thấy các pháp vô thường như thật nên sinh tâm chấp đắm, dính mắc, do chấp đắm, dính mắc nên tâm tham, sân, si lẫy lừng khó ngăn và khó diệt”. Từ tâm tham, sân, si đó mà con người sống trong ác pháp luôn làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Chính vì người ta không thấu rõ như thật đời sống con người là khổ đau và thường thay đổi như mây giữa trời, như sương buổi sáng vì thế mà khổ đau lại chồng chất lên khổ đau của kiếp làm người.

Chỉ có những người nào luôn quán chiếu “Nghĩ đến đời sống là khổ và vô thường” và thấy biết rõ như thật thì người ấy thoát mọi khổ đau. Vậy chúng ta luôn luôn ghi khắc lời dạy này của Phật thì cuộc đời này mới tìm ra chân hạnh phúc.

Câu thứ bảy đức Phật dạy: “Luôn nghĩ đến khổ và vô ngã”.

Hằng ngày chúng ta luôn nghĩ đến sự khổ đau của kiếp làm người và sự vô ngã của thân tâm và các pháp. Vì thân tâm con người và các pháp không có vật gì tồn tại mãi, tất cả có sinh thì phải có diệt, do đó chúng ta đừng để tâm dính mắc chấp đắm thân tâm và các pháp thì mới có sự giải thoát, mới có sự ra khỏi biển đời đầy khổ đau, chừng đó chúng ta mới hiểu ra đời người chẳng có gì cả, chỉ là một trò ảo ảnh của nhân quả dựng lên, hết tuồng này đến tuồng nọ.

Lời đức Phật dạy: “Luôn nghĩ đến khổ và vô ngã”. Chúng ta nên ghi nhớ mãi đừng quên lời dạy này. Phải không quý vị? Vì có ghi nhớ lời dạy này chúng ta mới cố gắng buông xả sạch thế gian chỉ còn lại một tâm thanh thản, an lạc và vô sự mà không có một ác pháp nào động được tâm ta. Luôn nghĩ đến khổ và vô ngã thì chúng ta buông xuống và sạch tất cả lòng dục và các ác pháp.

“Buông xuống đi! Hãy buông xuống đi!
Chớ giữ làm chi có ích gì?
Thở ra chẳng lại còn chi nữa,
Vạn pháp vô thường buông xuống đi!”

NGƯỜI MỚI VÀO TU CÓ HAI MƯƠI PHÁP CẦN TU TẬP

1- Trong mọi thời gian đều nhắc tâm: Tâm phải ly dục ly ác pháp, tâm như cục đất không giận hờn thương ghét ai hết phải thanh thản, phải bất động và phải vô sự.

2- Một ngày đêm phải tập ngồi kiết già, lưng thẳng bốn thời, người mới tu mỗi thời năm phút dần dần tăng lên 30'.

3- Mỗi ngày tập bốn lần, mỗi lần mười hơi thở, hai mắt tập nhìn chóp mũi, chú ý nơi nhân trung cạnh chân mũi, chỗ hơi thở đi ngang ra vào.

4- Tập thở hơi thở bình thường, mười hơi thở rồi nhắc tâm:"tôi thở tôi biết tôi đang thở", tiếp tục tu năm phút xả nghỉ, lần lượt tăng dần lên ba mươi phút.

5- Tập đi kinh hành mười bước đếm đúng mười bước thì lại hướng tâm: "Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành". Chỗ này phải lưu ý: đừng chú tâm vào hai chỗ hơi thở và bước đi, mà hãy chú tâm vào bước đi thì mới đúng nghĩa là đi kinh hành.

Trên Tứ Niệm Xứ Phật dạy: Đi kinh hành là thân hành niệm ngoại còn gọi là chánh niệm tỉnh giác định. Hơi thở là thân hành niệm nội còn gọi là định niệm hơi thở mà các Tổ gọi là quán niệm hơi thở.

Khi đã tập được mười hơi thở không có một tạp niệm xen vào thì lại tiếp tục đếm bước đi kế tiếp, mười một cho đến hai mươi bước, rồi lại hướng tâm một lần nữa, "tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành", khi đếm hai mươi bước và hướng tâm xong, thì lại tiếp đếm bước hai mươi mốt cho đến ba mươi, cứ đếm như vậy cho đến 100 . Nếu đếm như vậy thấy không tiện thì nên đếm từ một đến mười rồi đếm trở lại một đến mười. Nếu có tạp niệm xen vào thì nên lui lại 50 bước , 50 bước còn có tạp niệm xen vào thì lui lại 10 bước xả nghỉ . Xả nghỉ năm phút rồi đi kinh hành lại.

6- Quán xét thực phẩm bất tịnh để tâm không còn ưa thích ăn uống ngon béo ngọt bùi.

7- Quán xét đời sống con người khổ để xa lìa tâm tham đắm vật chất thế gian.

8- Quán xét thân vô thường sự sống chết như chỉ mành treo chuông.

9- Quán xét bịnh là khổ để siêng năng tinh tấn tu hành.

10- Quán xét tâm tham, sân, si, mạn, nghi là ác pháp, là nguy hiểm, là đau khổ.

11- Quán xét thân bất tịnh để phá ngã chấp và để tránh khỏi chấp thân là quan trọng.

12- Quán xét tâm vô thường để không bị lầm chấp tâm là linh hồn, là Phật Tánh, là Bản thể vạn hữu.

13- Quán xét thọ vô thường để tâm bất động khi gặp thọ khổ chẳng hề sợ hãi.

14- Quán xét các pháp vô thường để tâm không tham đắm và dính mắc.

15- Quán tâm từ để không làm đau khổ chúng sanh, để tâm không sân hận.

16- Quán tâm bi để không làm thương tổn chúng sanh.

17- Quán tâm hỷ để tha thứ lỗi lầm của kẻ khác và không thù oán ai hết.

18- Quán tâm xả để tâm thanh thản an lạc vô sự.

19- Khi mọi hoàn cảnh bất an hoặc tai nạn, bịnh tật thì quán xét nhân quả.

20- Mỗi ngày ít nhất phải nhắc tâm một lần, tức là như lý tác ý: "chỉ trong đời này ta phải làm chủ sanh già bịnh chết".

Thích Thông Lạc

Abd al-Rahman không bao giờ có thể biết tổng hạnh phúc mà ông có được. Bởi vị vua này không bao giờ biết được công thức đúng để tìm kiếm hạnh phúc.

Abd al-Rahman đệ tam là một vị vua và một thủ lĩnh Hồi giáo của xứ Córdoba ở Tây Ban Nha thế kỷ thứ 10. Ông là người cai trị tối cao và sống trong sự xa hoa tuyệt đối. Đây là cách mà ông nhận định về cuộc sống của mình:

“Cho tới bây giờ, ta đã trị vì hơn 50 năm trong phồn thịnh và hoà bình; thần dân yêu thương ta, kẻ địch khiếp sợ ta, và các đồng minh kính nể ta. Giàu sang và địa vị, quyền lực và lạc thú đợi lệnh ta, và ta có tất cả mọi lời chúc tụng trên mặt đất này.”

Vinh hoa, phú quý, và lạc thú trên cả tưởng tượng. Nghe có vẻ quá hoàn hảo? Ông đã viết tiếp:

“Ta đã cẩn trọng và kiên trì đếm số ngày mà ta cảm nhận được niềm vui thuần khiết thật sự trong đời mình: chỉ vỏn vẹn có 14 ngày.”

Vấn đề của Abd al-Rahman, như ông đã nghĩ, không phải là sự hạnh phúc, mà là sự bất hạnh. Nếu điều đó nghe có vẻ như một sự phân biệt không hề có chút khác biệt nào, có lẽ bạn cũng có vấn đề tương tự như vị vua vĩ đại kia. Nhưng với một chút hiểu biết, bạn có thể tránh được sự khổ sở mà ông ấy đã chịu.

Thế nào là sự bất hạnh? Trực giác của bạn có thể mách bảo rằng “bất hạnh” đơn giản là đối lập của hạnh phúc, như bóng tối là sự thiếu vắng ánh sáng. Điều đó là không đúng. Hạnh phúc và sự bất hạnh chắc chắn là có liên hệ với nhau, nhưng chúng không thật sự là hai mặt đối lập. Ảnh chụp bộ não cho thấy nhiều khu vực của vỏ não bên trái hoạt động mạnh hơn so với với bên phải khi chúng ta cảm thấy hạnh phúc, trong khi vỏ não phải trở nên hoạt động mạnh hơn khi chúng ta không hạnh phúc.

Nghe có vẻ lạ, nhưng một người vui vẻ hạnh phúc hơn mức bình quân không có nghĩa là người đó không thể cảm thấy buồn bã bất hạnh hơn mức trung bình. Có một bài kiểm tra về mức độ hạnh phúc lẫn bất hạnh, đó là bài kiểm tra Phân hạng Cảm xúc tích cực và Cảm xúc tiêu cực. Tôi đã tự mình làm bài kiểm tra đó. Tôi phát hiện ra rằng, đối với “hạnh phúc”, tôi nằm trong tốp đầu của những người có cùng độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp và trình độ văn hoá. Nhưng tôi cũng có điểm khá cao đối với hạng mục “không hạnh phúc”. Tôi là một người u sầu, nhưng u sầu một cách vui vẻ.

Vì thế khi một người nói, “Tôi là một người bất hạnh,” họ thật ra là đang nói về tổng thể cho dù họ có nhận ra điều đó hay không. Họ sẽ nói, “Sự bất hạnh của tôi là x, sự hạnh phúc của tôi là y, và x>y.” Câu hỏi thật sự là tại sao, và bạn có thể làm gì để làm y>x.

Nếu bạn hỏi một người cảm thấy không hạnh phúc tại sao anh ta lại cảm thấy như vậy, anh ta hầu như luôn luôn đổ lỗi cho hoàn cảnh. Tất nhiên trong nhiều trường hợp, điều đó có thể đúng. Một số người phải gánh chịu sự đàn áp, nghèo đói hay bệnh tật thể xác, những yếu tố làm cho cuộc sống của họ như một công việc nhàm chán. Không ngạc nhiên khi các nghiên cứu cho thấy rằng phân biệt giới tính làm cho trẻ em cảm thấy không hạnh phúc, và nhiều công trình học thuật chỉ ra mối liên kết giữa sự bất hạnh và sự nghèo khó. Một nguyên nhân thông thường khác mang đến sự không hạnh phúc chính là sự cô đơn, và có khoảng 20% dân số Mỹ khổ sở vì điều này đến độ đủ để xem sự cô đơn là một nguyên nhân chủ đạo của sự bất hạnh trong cuộc đời họ.

Cũng có những nguyên nhân mang tính hoàn cảnh khác cho sự bất hạnh. Nhà tâm lý học Daniel Kahneman và các đồng nghiệp của mình ở Princeton đã đo “cảm xúc tiêu cực” (các trạng thái tinh thần không tốt) mà các hoạt động và tương tác thông thường hàng ngày có thể mang lại. Họ nhận thấy sự kiện kích động sự không hạnh phúc số 1 trong một ngày điển hình chính là trải qua thời gian với cấp trên của một người (điều này làm cho tôi, một ông sếp, cảm thấy không vui khi được biết).

Không nghi ngờ gì, hoàn cảnh rất quan trọng. Chắc chắn Abd al-Rahman có thể chỉ ra một vài tình huống trong quãng đời của ông. Nhưng nghịch lý là, lời giải thích đúng đắn hơn cho sự bất hạnh của ông hẳn có thể là quá trình tìm kiếm hạnh phúc của ông. Và điều tương tự cũng có thể đúng đối với bạn.

Đã bao giờ bạn quen biết một người nghiện rượu? Những người nghiện rượu thường uống để giải toả cơn ghiền hay nỗi lo âu nào đó – nói cách khác, để kiềm hãm một “nguồn” của sự bất hạnh. Nhưng suy cho cùng chính rượu mới kéo dài sự đau khổ của họ. Nguyên tắc tương tự cũng áp dụng cho trường hợp của vua Abd al-Rahman khi ông theo đuổi danh vọng, giàu sang và lạc thú.

Hãy xem xét đối với trường hợp “danh vọng”. Trong năm 2009, các nhà nghiên cứu từ đại học Rochester đã tiến hành một nghiên cứu, họ theo dõi sự thành đạt của 147 tân cử nhân trong việc đạt được những mục tiêu mà các sinh viên đã đề ra sau khi tốt nghiệp. Một số người có những mục tiêu “nội tại”, chẳng hạn như các mối quan hệ sâu sắc và bền vững. Những người khác có những mục tiêu “ngoại tại”, như đạt được tiếng tăm hay danh vọng. Các học giả đã nhận thấy rằng các mục tiêu nội tại có liên hệ với đời sống hạnh phúc hơn. Còn những người theo đuổi các mục tiêu ngoại tại thường phải chịu nhiều cảm xúc tiêu cực hơn, như sự tủi hổ hay sợ hãi. Những người này thậm chí còn phải chịu nhiều bệnh tật về mặt thể chất.

Đây là một trong những sự mỉa mai tàn nhẫn nhất trong cuộc sống. Tôi làm việc ở Washington, ngay trong lòng của những cuộc chiến chính trị công khai. Không loại một trường hợp nào, những người không hạnh phúc nhất tôi từng gặp là những người cống hiến hết sức lực cho việc làm cho họ trở nên vĩ đại – các (pundit), những kẻ to mồm trên TV, những nhân vật “biết tất”. Họ tự dựng lên và quảng bá hình ảnh của họ, nhưng thường xuyên cảm thấy tồi tệ.

Đó là nghịch lý của danh vọng. Cũng giống như các loại thuốc nghiện và rượu, một khi bạn trở nên nghiện ngập, bạn không thể sống thiếu nó. Nhưng thực ra bạn cũng không thể sống với nó. Theo nghiên cứu của nhà tâm lý học Donna Rockwell, những người nổi tiếng diễn tả danh vọng như là “một con thú trong chuồng, một món đồ chơi trong một cửa kính trưng bày, một con búp bê Barbie, một vỏ bọc nơi công cộng, một tượng đất sét, hay, một gã nào đó trên TV.” Thế nhưng họ không thể từ bỏ nó.

Sự khao khát danh vọng của người thường đã tạo ra nhiều phát kiến đáng kinh ngạc. Một trong số đó là sự ra đời của truyền hình thực tế, nơi những con người bình thường chẳng tên tuổi trở thành những diễn viên diễn về cuộc sống hằng ngày của họ cho người khác xem. Tại sao? “Được chú ý, được săn đón, được yêu thích, khi bước chân đến một nơi nào thì được người khác quan tâm xem bạn đang làm gì, thậm chí là bạn ăn gì cho buổi trưa hôm đó: đó là những gì người ta muốn, theo quan điểm của tôi,” một thí sinh 26 tuổi trong chương trình truyền hình thực tế nổi tiếng “Big Brother” cho biết.

Và còn đó các mạng xã hội. Ngày nay, mỗi người chúng ta đều có thể tạo cho mình một lượng fan cá nhân nho nhỏ, nhờ vào Facebook, YouTube, Twitter và các mạng xã hội tương tự. Chúng ta có thể “phát sóng” tất cả các chi tiết cuộc sống của chúng ta đến bạn bè và cả những người xa lạ một cách cực kỳ hiệu quả. Điều đó khá tốt để giữ liên lạc với bạn bè thân thích, nhưng đồng thời nó cũng tạo ra một dạng “tìm kiếm tiếng tăm” thứ yếu, nằm trong tầm với của mỗi chúng ta. Và một vài nghiên cứu cho thấy nó có thể làm chúng ta cảm thấy bất hạnh.

Điều đó hoàn toàn có lý, đúng không? Bạn đăng cái gì trên Facebook? Đăng hình ảnh bạn đang la mắng con cái mình, hay hình ảnh bạn đang bù đầu bù cổ nơi làm việc? Không, bạn đăng hình bạn đang cười toe trong một chuyến leo núi với bạn bè. Bạn dựng nên một cuộc sống giả – hay ít nhất là một cuộc sống thật nhưng không phải toàn bộ sự thật – và chia sẻ nó với người khác. Hơn nữa, bạn tiếp nhận gần như toàn bộ là thông tin về những cuộc sống ảo của những người “bạn” trên mạng xã hội. Chỉ trừ khi bạn cực kỳ hiểu rõ bản thân mình là ai, mình có gì, không thì bạn sẽ khó mà không cảm thấy tồi tệ khi bạn sống hầu hết thời gian để tỏ ra bạn vui vẻ hơn bạn của thực tế, và phần còn lại thời gian thì xem xem người khác dường như hạnh phúc hơn bạn bao nhiêu.

Một số người tìm sự giải cứu khỏi tâm trạng bất hạnh từ tiền bạc và vật chất. Trường hợp này hơi phức tạp hơn so với danh tiếng. Tiền bạc đúng là có thể giải thoát người ta khỏi khổ sở nếu như nó là phương tiện cho một nhu cầu vật chất đích thực nào đó (như nhu cầu ăn mặc cơ bản của con người – ND, và theo tác giả bài viết, đây là một luận cứ mạnh mẽ cho các chính sách hỗ trợ xoá đói nghèo). Nhưng khi tiền bản thân nó trở thành mục đích, nó cũng có thể mang lại đau khổ.

Trong nhiều thập kỷ, các nhà tâm lý học đã sàn lọc, biên soạn một lượng lớn các tài liệu về các mối liên hệ giữa các khát vọng khác nhau và sự hạnh phúc. Bất kể các văn kiện này khảo cứu người mới trưởng thành hay người ở mọi độ tuổi, hầu hết các nghiên cứu đều chỉ ra cùng một kết luận quan trọng: những người xếp các mục tiêu về vật chất như sự giàu sang thành các ưu tiên các nhân hàng đầu có khả năng rất cao họ cũng lo âu nhiều hơn, buồn rầu chán nản nhiều hơn, và sử dụng thuốc gây nghiện nhiều hơn, hay thậm chí có các vấn đề về sức khoẻ nhiều hơn so với những người quan tâm đến những giá trị nội tại (những giá trị không chịu phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài để tồn tại và phát triển, ví dụ như các mối quan hệ thân thiết trong gia đình, bạn bè, lương tâm nghề nghiệp, đạo đức lối sống, v.v. – ND)

Không một ai nổi tiếng hơn thánh Paul trong việc tóm lược những cạm bẫy đạo đức của chủ nghĩa vật chất trong Lá thư đầu tiên gửi Timothy của ngài: “Vì tình yêu đối với bạc tiền là nguồn gốc của mọi tội ác: trong khi họ khao khát nó, họ bị lạc lối khỏi đức tin của mình, và tự đâm xuyên người họ bằng những nỗi buồn.” Hay như đức Dalai Lama dạy rằng, chúng ta nên muốn những gì chúng ta có hơn là có những gì chúng ta muốn.

Vì vậy, danh vọng và tiền bạc không mang lại cho ta hạnh phúc. Còn các lạc thú của thể xác thì sao? Hãy xem xét lạc thú kinh điển nhất của chủ nghĩa khoái lạc (chủ nghĩa xem sự hưởng thụ các lạc thú là mục tiêu quan trọng nhất của cuộc sống – ND): dục vọng. Từ Hollywood cho tới khuôn viên các trường đại học, nhiều người cho rằng tình dục luôn tuyệt vời, và tình dục với nhiều người khác nhau thậm chí còn tuyệt vời hơn.

Và ý niệm đó thực ra được gọi với cái tên: “Hiệu ứng Coolidge”, đặt theo tên của tổng thống Mỹ đời thứ 30. Câu chuyện (rất có khả năng là một ngụy tác) bắt đầu với Silent Cal và phu nhân Coolidge trong một chuyến viếng thăm một trang trại gia cầm. Bà Đệ nhất phu nhân nhận thấy có rất ít gà trống, và đã hỏi làm thế nào mà nhiều trứng gà như thế lại có thể được thụ tinh. Người chủ trang trại trả lời bà rằng những con gà trống trong thời kỳ giao phối thực hiện công việc thụ tinh hết lần này tới lần khác trong ngày. Bà Đệ nhất phu nhân liền bảo, “Có lẽ ông có thể chỉ ra điều đó cho ngài Coolidge.” Ngài tổng thống nghe thấy hỏi người chủ trang trại xem liệu có phải một con gà trống chỉ giao phối với cùng một con gà mái. Người chủ trang trại trả lời với ông rằng không, một con gà trống thụ tinh cho nhiều con gà mái. Và ngài tổng thống bảo, “Có lẽ ông nên chỉ ra điều đó cho bà Coolidge.” Ngài tổng thống hẳn đã biết đó là những con gà trống “hạnh phúc”. Và mặc cho những chuẩn mực đạo đức, nguyên lý tương tự cũng đúng đối với con người chúng ta. Đúng không?

Câu trả lời là không. Trong năm 2004, hai nhà kinh tế học đã xem xét liệu quan hệ tình dục với nhiều người khác nhau có làm cho người ta cảm thấy hạnh phúc hơn. Họ xem xét dữ liệu từ khoảng 16000 người Mỹ trưởng thành đã được hỏi, và giữ bí mật, xem họ đã sex với bao nhiêu bạn tình trong năm trước đó, và họ có cảm thấy hạnh phúc hay không. Kết quả cho thấy, đối với cả nam giới cũng như nữ giới, con số tối ưu là 1 người.

Điều này có vẻ rất phản trực giác. Suy cho cùng, chúng ta rõ ràng được thôi thúc để tích trữ của cải vật chất, đuổi theo danh vọng và tìm kiếm lạc thú. Làm thế nào mà những thứ này lại có thể làm cho chúng ta không hạnh phúc thay vì hạnh phúc? Có 2 cách giải thích, một theo sinh học và một theo triết học.

Từ góc nhìn của quá trình tiến hoá, việc chúng ta được “lập trình” để theo đuổi danh tiếng, giàu sang và nhiều bạn tình khác nhau. Những thứ đó cho chúng ta lợi thế về mặt sinh học theo nghĩa chúng ta có khả năng truyền lại DNA của mình cao hơn. Nếu tổ tiên thời tiền sử của chúng ta đã không có được những điều kể trên dưới một hình thức nào đó (ví dụ như tổ tiên chúng ta là những người mài đá lẫy lừng, hay có nhiều lớp “da” khác nhau, tức da thú mà tổ tiên chúng ta khoác lên), họ đã không thể tìm thấy đủ bạn tình để có thể sinh sôi nảy nở và tạo nên dòng dõi chúng ta ngày nay.

Nhưng đây chính là điểm mà quá trình tiến hoá đã quá trớn: Chúng ta nghĩ rằng những thứ khiến chúng ta cảm thấy bị thu hút đồng thời cũng sẽ giảm mức độ đau khổ của ta xuống và nâng mức độ hạnh phúc của ta lên. Ví như, não của tôi bảo rằng, “Hãy trở nên nổi tiếng”. Nó cũng bảo tôi rằng, “Bất hạnh rất là tồi tệ và có hại.” Tôi ghép hai điều đó lại và được “Hãy trở nên nổi tiếng và mày sẽ bớt bất hạnh.” (?!)

Và đó chính là trò đùa của Mẹ tạo hoá. Bà không thật sự quan tâm bạn cảm thấy thế nào, hạnh phúc hay bất hạnh – bà chỉ muốn bạn có thể nối dõi tông đường. Nếu bạn gán một khái niệm hết sức chung nhất như “sự tồn tại” với “hạnh phúc”, đó là vấn đề của bạn, không phải của tạo hoá. Và vấn đề không hề được giải quyết bởi những thằng ngốc nhưng hữu dụng đối với tạo hoá trong xã hội này, những kẻ tuyên truyền một lời khuyên mang tính huỷ hoại cuộc sống khá là nổi tiếng: “Nếu làm một cái gì mà làm cho bạn cảm thấy thoải mái, cứ làm.” Trừ khi chúng ta có cùng mục tiêu tồn tại như các sinh vật đơn bào, không thì điều đó thường là sai bét.

Nếu nhìn dưới góc nhìn triết học hơn, vấn đề nảy sinh từ trạng thái không thoả mãn – tức cảm giác không có cái gì là đủ đầy, và chúng ta không ngừng tiềm kiếm và muốn thứ khác. Chúng ta không thể chỉ rõ chúng ta tìm kiếm thứ gì. Nếu như không cố gắng chiêm nghiệm và rèn luyện tinh thần, chúng ta sẽ trở thành nô lệ cho vật chất, những thú vui xác thịt và sự tung hô của bạn bè cũng như những người xa lạ.

Chúng ta tìm kiếm những thứ giúp chúng ta lấp đầy khoảng trống bên trong tâm hồn chúng ta. Những thứ đó có thể cho chúng ta sự thoả mãn ngắn ngủi, nhưng nó không bao giờ kéo dài, và không bao giờ là đủ. Và vì vậy chúng ta thèm muốn những thứ khác. Nghịch lý này trong tiếng Phạn gọi là upadana, có nghĩa là một vòng lặp của ham muốn và chiếm đoạt. Như trí đạo trong nhà Phật có nói: “Gieo sự ham muốn của một người vào một cuộc sống không chút ý thức của người đó, nó sẽ phát triển như cây tầm gửi. Như loài khỉ tìm kiếm hoa quả trong rừng, nhảy từ cuộc sống này sang cuộc sống khác… Bất kể ai bị sự ham muốn hết sức tệ hại và đeo bám này chế ngự, nỗi buồn của người đó sẽ nhiều như cỏ mọc sau mưa.”

Những cuộc săn lùng danh tiếng, những thèm muốn vật chất và việc coi người khác như đồ vật – hay cũng chính là vòng lặp của ham muốn và chiếm đoạt – tuân theo một công thức rất đơn giản, rất hàm súc và cũng rất nguy hiểm:

Yêu vật chất và sử dụng người khác.

Đây chính là công thức của Abd al-Rahman khi ông “mộng du” qua những năm tháng của cuộc đời mình. Đó là một phương thuốc của lang băm được rao bán bởi những người tiên phong trong việc tạo nên một nền văn hoá từ Hollywood đến Đại lộ Madison. Nhưng từ sâu thẳm trong lòng, bạn biết công thức đó là một sự tha hoá đạo đức và là con đường dẫn tới những khổ đau. Bạn muốn thoát khỏi những ham muốn luôn đeo bám và khiến chúng ta bất hạnh, và thay vào đó tìm một công thức khác cho hạnh phúc. Nhưng bằng cách nào? Đơn giản là bạn hãy đảo ngược công thức đáng sợ ở trên và biến nó thành qui tắc đạo đức của mình:

Yêu con người và sử dụng vật chất.

Tôi cũng biết, nói dễ hơn làm. Để làm được như công thức đạo đức trên cần phải có dũng khí để từ bỏ lòng kiêu hãnh và sức mạnh để yêu thương người khác – bao gồm gia đình, bè bạn, đồng nghiệp, người quen, Chúa trời/Trời Phật và cả những người ta không quen biết hay thậm chí là kẻ thù của ta. Chúng ta chỉ nên chối bỏ tình yêu đối với những thứ thật sự là đồ vật. Và hình thức rèn luyện để đạt được điều này là từ thiện. Có rất ít thứ làm cho ta cảm thấy được giải thoát như việc cho người khác những thứ mà ta quí báu.

Chúng ta còn cần phải lên án chủ nghĩa vật chất. Đây rõ ràng không phải là một luận cứ dành cho một hệ thống kinh tế nào. Những ai đã từng sống ở một nước xã hội chủ nghĩa đều phải công nhận rằng chủ nghĩa vật chất và sự ích kỷ, dưới chế độ chủ nghĩa tập thể, là vô cùng tồi tệ hay thậm chí còn tệ hơn trường hợp thị trường tự do. Và không có một hệ tư tưởng chính trị nào lại có thể miễn nhiễm với chủ nghĩa vật chất.

Cuối cùng, chúng ta cần phải tự vấn sâu sắc đối với các ham muốn cơ bản của bản thân. Tất nhiên chúng ta bị thúc đẩy để có được sự ngưỡng mộ, sự huy hoàng và sự tự do sử dụng cơ thể của mình theo ý mình muốn. Nhưng khuất phục trước những ham muốn đó sẽ mang lại bất hạnh. Bạn có trách nhiệm với chính bản thân rằng mình phải đấu tranh. Một khi bạn tuyên bố đình chiến là khi bạn trở nên kém hạnh phúc. Tuyên bố chống lại những ham muốn mang mang tính phá hoại này không phải là sự khổ hạnh hay hay theo chủ nghĩa Thanh giáo (tôn giáo mà những người theo đạo sẽ phải tuân thủ hết sức nghiêm ngặt các qui tắc sống và xử sự – ND). Nó chỉ đơn giản là trở thành một người khôn ngoan biết né tránh những khổ ải không cần thiết.

Abd al-Rahman không bao giờ có thể biết tổng hạnh phúc mà ông có được. Bởi vị vua này không bao giờ biết được công thức đúng để tìm kiếm hạnh phúc. Chúng ta thì có.


Khi nghiên cứu về đạo Phật, các nhà học giả phần đông ai cũng ra công tìm hiểu TỨ DIỆU ĐẾ. TỨ DIỆU ĐẾ là pháp môn đầu tiên của đức Phật, từ khi tu chứng đạo và đem pháp môn này ra dạy cho năm anh em Kiều Trần Như. Đó là chuyển pháp luân lần đầu tiên trong lịch sử của Phật giáo. Pháp môn này không có một tôn giáo nào trên hành tinh này có được. Ngài dám khẳng định về con người có bốn sự thật cần phải hiểu rõ. Nếu không hiểu rõ bốn sự thật này thì con người không bao giờ thoát ra mọi sự đau khổ của cuộc đời.

Trước khi đem giáo pháp này ra dạy thì Ngài đã chọn những người nào đáng được nghe bài pháp đầu tiên nói về con người.

Sau khi quan sát Ngài thấy có năm anh em Kiều Trần Như đang tu hành trong núi gần bên Ngài. Vì thế bài pháp đầu tiên của Ngài được thuyết giảng cho năm anh em Kiều Trần Như nghe.

Bốn sự thật của con người mà đức Phật giảng dạy là bốn điều rất cần thiết cho con người. Vì vậy mọi người ai cũng cần phải thấu hiểu.

Từ xưa đến ngày nay đã có nhiều người nhưng chưa ai hiểu biết giáo pháp này, mặc dù đức Phật đã giảng nói cách đây 2550 năm. Bởi con người mãi chạy theo lòng dục lạc ham danh đắm lợi nên xem thường giáo pháp này, vì thế giáo pháp này đã biến dạng thành một pháp môn tha lực, nên việc cầu cúng bái, tế lễ càng ngày càng nhiều hơn, nên mọi người phải chịu luân hồi trong sáu nẻo khổ đau không sao kể siết. Nếu không thấu hiểu bốn sự thật này thì con người sống trong đau khổ mà cứ mãi chịu trong đau khổ.

Đức Phật, người đã thấy biết bốn sự thật này rất rõ ràng nên muốn giúp cho con người thấu hiểu, và nhờ biết rõ ràng thân phận của mình có bốn sự thật.

Trong bốn sự thật có sự thật thứ tư là phương pháp chỉ thằng đường lối tu tập làm chủ bốn sự đau khổ của kiếp người là sinh, già, bệnh, chết.

Đạo Phật bắt đầu tu tập từ chỗ khổ đau đến chấm dứt khổ đau; tức là bắt đầu tu tập bằng cách triển khai tri kiến giải thoát, nhờ có triển khai tri kiến hiểu biết nên mới có cách thức ly dục ly bất thiện pháp.

Hằng ngày dùng tri kiến giải thoát nên việc xả các chướng ngại pháp rất dễ dàng. Chính nhờ xả chướng ngại pháp dễ dàng nên việc bảo vệ tâm bất động không còn khó khăn nữa.

Sau khi giữ gìn tâm bất động được trọn vẹn thì tâm luôn luôn bám sát trên Tứ Niệm Xứ, thời gian suốt bảy ngày đêm thì tâm có đủ đạo lực làm chủ sinh, già, bệnh, chết. Khi tâm bất động thanh thản, an lạc và vô sự tức là tâm thanh tịnh. Khi tâm đã thanh tịnh thì tâm nhập Tứ Thánh Định rất dễ dàng không còn khó khăn và mệt nhọc nữa. Do nhờ tu tập đúng như vậy nên từ phàm phu đến chứng quả thánh dễ như trở bàn tay.

Bài học thứ nhất: KHỔ ĐẾ

Khi nghiên cứu chúng ta phải bắt đầu từ chân lí thứ nhất. Chân lí thứ nhất đã xác định con người là một khối đau khổ, điều này không ai dám phủ nhận được.

Cho nên con người khổ đau từ lúc nằm trong bụng mẹ cho đến khi chết, rồi lại tiếp tục tái sinh vào bụng mẹ nữa, và như vậy sự khổ đau mãi mãi không bao giờ dứt, từ đời này kế tiếp đời khác như một vòng tròn khổ đau không có lối thoát ra.

Nhưng may mắn thay chúng ta đã nhờ ơn đức Phật, Người chỉ dạy đường lối tu tập để con người thoát ra khỏi vòng tròn đau khổ này. Nhưng có mấy ai đã hiểu biết như vậy và cố gắng thoát ra khỏi vòng tròn đau khổ. Con người ai cũng sợ khổ, ai cũng muốn thoát khổ, những họ không muốn lìa dục, không muốn xa ác pháp. Vì thế họ luôn luôn cứ làm ác sống trong ác thường làm khổ mình khổ người và khổ chúng sinh.

Dục chính là nguyên nhân sinh ra muôn vạn sự đau khổ, vì thế con người tu tập thì có tu tập mà cứ mãi mê ôm dục khư khư trong lòng không muốn lìa dục. Tu như vậy làm sao giải thoát được hỡi quý vị?

Tu mãi không đoạt được kết quả giải thoát rồi cho đó là con đường của đạo Phật khó tu. Sự thật con đường giải thoát của đạo Phật không phải khó tu mà khó hay dễ đều là do con người, nếu những ai muốn thoát khổ thì tu hành rất dễ dàng thoát khổ, họ chỉ cần ly dục ly ác pháp trong tâm của mình thì ngay đó là có giải thoát liền, chứ đâu phải ngồi lim dim như con cóc không niệm khởi như Thiền Tông Trung Quốc.

Cho nên những ai không muốn sống ly dục ly ác pháp là những người còn ham muốn sống trong đau khổ. Những người còn ham muốn sống trong dục thì rất khó tu tập theo đường lối của đạo Phật, dù có tu tập cũng không giải thoát. Bởi chính họ còn ưa thích dục.

Chân lí thứ nhất đức Phật đã xác định rõ ràng con người là một khối đau khổ như trên đã nói. Nếu người nào còn thích sống trong đau khổ, không muốn buông bỏ mọi sự đau khổ thì con đường đạo Phật họ không thể đi được. Và như vậy dù đạo Phật có đến với họ vẫn là vô ích.

Có người hỏi:

Con người là một khối khổ như thế nào xin chỉ rõ cho chúng con hiểu?

Xin quý vị hãy lắng nghe:

- Cái khổ thứ nhất: Thân con người là một khối khổ. Khổ từ khi còn nằm trong bụng mẹ, còn là một bào thai.

Bụng mẹ giống như một nhà tù và chỗ thai nhi nằm như một chuồng cọp trong nhà tù rất chật chội, vì vậy thai nhi xoay trở rất khó khăn, nhất là nơi thai nhi nằm toàn là nước nhờn nhớt bẩn thỉu uế trược. Đó là nơi bất tịnh nhất trên trần gian này, thế mà con người trước khi sinh ra không ai tránh khỏi bị giam mình trong ao tù bất tịnh này, đó là cái khổ thứ nhất.

- Cái khổ thứ hai: Khi xuất thai phải chui qua một cái cửa quá chật hẹp, thân người phải kéo nhẳn dài ra và nhờ người đỡ đẻ (bà mụ) kéo ra, cho nên khi qua cửa này đau đớn vô cùng, một còn mười mất. Đó là cái khổ thứ hai.

- Cái khổ thứ ba: Khi ra khỏi bụng mẹ, miệng mũi đều đầy nhớt nhao nên bà đỡ phải móc miệng, mũi làm cho sạch đờm nhớt nên rất đau khổ, thai nhi la khóc thét lên. Đó là cái khổ thứ ba.

- Cái khổ thứ tư: Cơ thể chưa giao tiếp khí hậu bên ngoài nên người lạnh run rất là khổ sở. Đó là cái khổ thứ tư.

- Cái khổ thứ năm: Cơ thể mới sinh ra giống như một cục thịt để đâu nằm đó nên bài tiết một chỗ, cơ thể nằm trên nước tiểu và phân của chính mình rất là hôi thối, vì vậy ngứa ngáy rất khổ sở. Đó là cái khổ thứ năm.

- Cái khổ thứ sáu: Cơ thể mới sinh ra giống như một cục thịt không lăn lộn trườn bò được nên bị mỏi và đau nhức khó chịu. Đó là cái khổ thứ sáu.

- Cái khổ thứ bảy: Khi cơ thể trườn bò được, nếu không người trông nom thì khi trườn bò trên giường ván thường bị rơi xuống đất nên đau đớn vô cùng. Đó là cái khổ thứ bảy.

- Cái khổ thứ tám: Khi cơ thể mới biết đứng thì đứng lên té xuống liên tục mà mỗi lần té là đau đớn. Đó là cái khổ thứ tám.

- Cái khổ thứ chín: Khi cơ thể mới biết đi, đi được vài bước liền té và mỗi lần té đều bị đau đớn khổ sở. Đó là cái khổ thứ chín

- Cái khổ thứ mười: Mỗi lần mọc răng là cơ thể bị bệnh nóng sốt bất an khó chịu. Đó là cái khổ thứ mười.

- Cái khổ thứ 11: Cơ thể sinh ra bị tật nguyền, tay chân không bình thường hoặc mù mắt. Đó là cái khổ thứ mười một.

- Cái khổ thứ 12: Trí óc đần độn ngu si, không nhớ thường quên trước quên sau, nên không được đến trường học hành. Đó là cái khổ thứ mười hai.

- Cái khổ thứ 13: Ham chơi không thuộc bài bị thầy cô giáo đánh phạt. Đó là cái khổ thứ mười ba.

- Cái khổ thứ 14: Theo bạn hư thân mất nết sinh ra trộm cắp đánh nhau nên bị tù tội. Đó là cái khổ thứ mười bốn.

- Cái khổ thứ 15: Khi lập gia đình hai vợ chồng thường hay cãi vã đánh nhau. Đó là cái khổ thứ mười lăm.

- Cái khổ thứ 16: Vợ chồng sinh con đẻ cái phải nuôi bồng ẵm. Đó là cái khổ thứ mười sáu.

- Cái khổ thứ 17: Khi con cái bệnh đau phải cho uống thuốc, ăn cháo, đi bác sĩ, đôi khi phải ở lại bệnh viện. Đó là cái khổ thứ mười bảy.

- Cái khổ thứ 18: Cơ thể già yếu đi đứng không vững vàng thường run rẩy. Đó là cái khổ thứ mười tám.

- Cái khổ thứ 19: Không tự ăn uống được, con cái phải đút từng muỗng cơm hay cháo. Đó là cái khổ thứ mười chín.

- Cái khổ thứ 20: Khi cơ thể sắp chết không chỗ nào không đau nhức. Đó là cái khổ thứ hai mươi.

Trên đây là 20 cái khổ khi có thân người, cho nên đức Phật dạy làm người khổ, chỉ khi nào chấm dứt không còn làm người, làm chúng sinh nữa thì mới hết khổ.

Nhưng muốn chấm dứt làm người, làm chúng sinh thì phải làm sao?

Phải theo đường lối Bát Chánh Đạo của Phật giáo tu tập thì mới chấm đứt mọi khổ đau này. Vậy xin mời quý vị hãy nghiên cứu tập sách “PHẬT GIÁO CÓ ĐƯỜNG LỐI RIÊNG” thì sẽ rõ.

Bài học thứ hai: TẬP ĐẾ

Tập đế là đế thứ hai trong bốn đế mà đức Phật đã xác định. Đó là nguyên nhân sinh ra muôn sự đau khổ của con người trên hành tinh này. Vậy nguyên nhân sinh ra đau khổ con người trên hành tinh này như thế nào?

Tập đế là lòng tham muốn của con người. Vậy làm người có ai không có lòng tham muốn không?

Không ai dám bảo rằng: Con người không có lòng tham muốn. Cho nên con người ai cũng có lòng tham muốn cả, tham muốn nhiều hay tham ít mà thôi, nhưng làm con người bảo rằng không tham muốn là sai không đúng. Chính vì lòng tham muốn mà con người phải chịu khổ vô vàn cay đắng. Bởi gốc khổ của con người là lòng tham muốn. Cho nên đức Phật dạy: Lòng tham muốn của con người là nguyên nhân sinh ra muôn sự khổ đau. Lòng ham muốn ấy là một sự thật, nó là bản chất của con người từ khi còn ở trong bụng mẹ, nên đức Phật gọi nó là chân lý thứ hai.

Con người sinh ra từ nghiệp, nhưng chủ động để đi tái sinh là DỤC, dục tức là lòng tham muốn của con người. Cho nên đạo Phật là đạo diệt dục, người còn lòng dục thì không thể tu theo đạo Phật.

Thường mọi người ngồi im lặng bất động thì tâm hay lăng xăng nghĩ ngợi điều này thế kia, đó là do lòng dục của con người. Bởi vậy Phật dạy: Người mới tu tập phải dùng tri kiến giải thoát để hằng ngày ly dục ly bất thiện pháp. Ly dục ly bất thiện pháp là thấy ngay có giải thoát liền. Quý vị cứ làm thử xem có đúng như vậy không?

Người nào siêng năng trong từng phút, từng giây ly dục ly bất thiện pháp thì người ấy luôn luôn ở trong tâm bất động. Tâm luôn luôn bất động là chứng đạo. Cho nên chứng đạo của Phật giáo đâu phải khó khăn, nếu biết cách tu tập thì chứng đạo một cách rất dễ dàng.

Ở đời, người ta thường bảo lòng ham muốn của con người là túi tham không đáy, đúng vậy, lòng ham muốn của con người tham biết bao nhiêu cũng không hết ham muốn. Có cái này thì ham muốn cái khác:

1- Ham muốn ăn món ăn này món ăn khác, tham muốn ăn thứ này đến thứ khác cho nên thức ăn ngày ngày người ta chế biến đủ loại. Bước vô gian hàng buôn bán thực phẩm không biết bao nhiêu mặt hàng ăn uống.

2- Ham muốn mặc quần này áo kia. Cho nên bước vào cửa hàng buôn bán quần áo thì mặt hàng may mặc đủ loại, đủ màu sắc và bông hoa đủ kiểu.

3- Ham muốn nhà ở, có nhà này thì ham muốn nhà khác. Nhà vừa cất xong khi thấy nhà người khác sang đẹp hơn thì lại sinh tâm ham muốn. Bởi vậy sự ham muốn biết sao cho vừa lòng ham muốn. Chính lòng ham muốn không biết dừng thì sự khổ đau sẽ không bao giờ dứt.

4- Ham muốn danh làm ông này bà kia. Khi làm được ông này bà kia thì lại ham muốn làm ông bà lớn hơn nữa. Cho nên lòng ham muốn không bao giờ cùng.

5- Ham muốn lợi, của cải tài sản tiền bạc nhiều bao nhiêu cũng không đủ. Có một trăm thì muốn có một triệu, khi có một triệu thì lại ham muốn có một tỷ. Đó là lòng ham muốn không bao giờ đủ.

6- Ham muốn dâm dục, bao nhiêu vợ cũng không đủ. Khi có bà này thì lại muốn bà kia. Cho nên gặp phụ nữ thì nhìn ngó say mê không bao giờ buông bỏ được.

7- Ham muốn nhậu nhẹt, rượu chè say xỉn không bao giờ biết dừng. Do đó con người rượu chè say xỉn trở thành kẻ giết người một cách dễ dàng. Trong xã hội ngày xưa cũng như ngày nay biết bao nhiêu người say xỉn giết người không gớm tay.

8- Ham muốn xe cộ, có xe này đòi xe khác. Trong nhà năm ba chiếc xe mà còn muốn xe khác nữa.

9- Ham muốn đi chơi du ngoạn nơi này nơi khác. Đi không biết bao nhiêu chỗ mà vẫn còn muốn đi.

10- Ham muốn có nhiều người phục vụ làm tay sai, lính hầu người hạ, thế mà chưa vừa còn muốn mọi người phục dịch mình nhiều hơn nữa.

11- Ham muốn mình là con người có tài có đức hơn người, nhưng khi có tài có đức thì lại muốn hơn nữa. Thật là lòng ham muốn biết sao cho vừa, cho đủ.

12- Ham muốn làm thầy thiên hạ. Muốn ai cũng tôn xung mình là thầy v.v... Cho nên tu hành chưa làm chủ sinh, già, bệnh, chết mà đã rời bỏ chỗ ẩn cư tu hành để tiếp xúc Phật tử, lập chùa to Phật lớn làm trụ trì ngôi chùa này, tịnh xá kia, niệm Phật đường nọ.

Bài học thứ ba: DIỆT ĐẾ

Diệt đế là một trạng thái tâm VÔ LẬU. Tâm vô lậu có nghĩa là tâm không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa. Khi thân tâm không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa là tâm đã giải thoát.

DIỆT ĐẾ có nghĩa là diệt hết mọi sự khổ đau, tức là diệt tận gốc đau khổ. Trạng thái chấm dứt mọi khổ đau, đó là tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự. Tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự là một sự thật. Vì mọi người dù chưa tu tập một pháp môn nào cả nhưng vẫn có trạng thái tâm này, nếu chúng ta cứ ngồi lại im lặng và lắng nghe sẽ nhận ra liền tâm bất động đó, mặc dù tâm bất động chỉ hiện tiền trong một phút giây rồi bị các niệm lăng xăng hiện ra làm mất tâm bất động đó.

Tâm VÔ LẬU này là một sự thật của con người nên đức Phật gọi nó là chân lí thứ ba trong đạo Phật.

Chân lý thứ ba của Phật giáo là một sự thật, nên đức Phật chỉ thẳng cho chúng ta biết để hộ trì và bảo vệ chân lý này.

Một chân lý để giúp con người thoát ra khỏi con đường đầy đau khổ, để giúp con người chấm dứt luân hồi và không còn đi tái sinh nữa.

Sau khi nghiên cứu kỹ về chân lý thứ ba của Phật giáo chúng tôi mới thấy đạo Phật rất tuyệt vời với cái tên là ĐẠO GIẢI THOÁT.

Đúng vậy, nếu ai biết giữ gìn và bảo vệ chân lý này thì giải thoát ngay liền tại chỗ không phải cần có thời gian tu tập.

Xin quý vị vui lòng lắng nghe chúng tôi chỉ thẳng cho quý vị nhận ngay liền chân lý thứ ba không có khó khăn, nhất là không cần phải tu tập mà quý vị vẫn nhận ra chân lý một cách dễ dàng. Bởi chân lý không phải bên ngoài quý vị mà nó là tâm quý vị.

Bây giờ xin quý vị ngồi im lặng rồi lắng nghe tâm của quý vị hiện ra một trạng thái “bất động, thanh thản, an lạc và vô sự”. Trạng thái đó là chân lý thứ ba.

Khi nhận ra chân lý thứ ba rồi chúng ta mới thấy sự giải thoát của Phật giáo là chân thật không dối người, không dối mình.

Khi nhận ra chân lý thứ ba, nếu ai muốn được giải thoát thì cố gắng giữ gìn và bảo vệ chân lý đó thì thân tâm không còn đau khổ nữa.

Khi nhận ra chân lý thứ ba mà xem thường không năng nổ chuyên cần siêng năng tu tập bảo vệ và giữ gìn thì cuộc sống luôn luôn đau khổ như một người chưa biết đạo.

Chúng tôi xin nhắc lại quý vị chân lý thứ ba rất quan trọng trong sự tu tập đi trên đường giải thoát.

Người nào muốn cầu giải thoát thì chỉ cần nhận ra chân lý này, khi nhận ra chân lý này chỉ cần biết sống với nó là chứng đạo. Cho nên chứng đạo của Phật rất đơn giản, dễ dàng không mấy khó khăn chút nào cả.

Bởi vậy chúng ta đến với đạo Phật là đến với sự giải thoát ngay liền không phải chờ tu tập năm hay mười năm.

Quý vị cứ nghe chúng tôi nói quý vị cứ làm thử xem thì sẽ thấy ngay liền giải thoát.

Bài học thứ tư: ĐẠO ĐẾ

Đạo đế là một chương trình giáo dục đào tạo người tu chứng quả VÔ LẬU. Nó có tên riêng gọi là BÁT CHÁNH ĐẠO, tức là tám lớp tu học. Tám lớp tu học như sau:

1- Chánh kiến
2- Chánh tư duy
3- Chánh ngữ
4- Chánh nghiệp
5- Chánh mạng
6- Chánh tinh tấn
7- Chánh niệm
8- Chánh định

Tám lớp tu học này được phân chia ra làm ba cấp như sau:

- Cấp 1 tu học giới luật gồm có năm lớp, từ lớp Chánh kiến đến lớp Chánh mạng.
- Cấp 2 tu học thiền định gồm có hai lớp, từ lớp Chánh tinh tấn đến lớp Chánh Niệm.
- Cấp 3 tu học tuệ Tam Minh gồm có một lớp Chánh định.

Như trên đã trình bày, ĐẠO ĐẾ là một chương trình giáo dục đào tạo những bậc tu chứng thánh quả A La Hán. Đó là một sự thật chớ không dùng lời dối người.

Xin quý vị đừng nghĩ quả A La Hán là cao siêu vi diệu, nó chỉ là một trạng thái tâm vô lậu. Cho nên người tu chứng quả A La Hán không khác gì mọi người, nhưng tâm họ thì khác hơn, vì họ không còn ham muốn bất cứ một vật gì trên thế gian này, nhất là họ không phiền giận bất cứ một người nào. Tất cả ác pháp đến với họ không còn làm cho họ giao động tâm, họ sống rất thanh thản, an lạc và vô sự, lúc nào cũng có một niềm vui trong lòng, nhất là thể hiện nụ cười qua khóe mắt, trên môi.

Chân lí thứ tư của Phật giáo là một sự thật. Vì thế những pháp môn nào tu học không ở trong chân lý thứ tư, tức là ngoài chương trình giáo dục đào tạo của Bát Chánh Đạo này là pháp môn của ngoại đạo.

Xin quý vị lưu ý, ngày nay giáo pháp của đức Phật đã bị pha trộn rất nhiều giáo pháp của ngoại đạo, nếu quý vị không cẩn thận sẽ rơi vào các pháp tưởng giải của các vị tổ sư thiền Đông Độ Trung Quốc. Các Ngài tu hành chưa đến nơi đến chốn, vì danh lợi mà đem ra dạy người tu tập, nhưng kết quả chẳng đi đến đâu, thành ra vô tình mà lừa đảo người khác.

Như quý vị ai cũng biết, Đại Thừa dạy tu tập nhất tâm bất loạn, còn thiền tông dạy biết vọng liền buông. Xét cách thức tu tập của các pháp này rõ ràng là ức chế ý thức, trong khi đức Phật dạy: “Ý làm chủ, ý tạo tác, ý dẫn đầu các pháp”. Thế mà Đại Thừa và Thiền Tông lại dạy ngược lời của đức Phật, và bảo rằng đó là lời dạy vô ngôn của Phật, “Niêm hoa vi tiếu”. Vậy chúng ta tu theo Phật nên tin Phật hay tin các tổ sư Trung Quốc?

Từ khi Phật giáo Trung Quốc truyền sang qua Việt Nam, làm cho Phật giáo Việt Nam không còn Phật giáo Việt Nam nữa, những việc cúng bái tế lễ đến những việc tu tập thiền định đều rập khuôn theo Phật giáo Trung Quốc. Vậy mà các tu sĩ Phật giáo Việt Nam lại hãnh diện.

Thích Thông Lạc

Hỏi: Muốn được xuất gia nhưng vợ không đồng ý.

Qua thư Thầy con biết việc xuất gia của con còn nhiều trở ngại, vì Thầy viết “nhận” nhưng với điều kiện không làm khổ mình, khổ người. Có nghĩa là vợ con phải vui lòng cho con xuất gia tu hành.

Một người bạn đời chưa giác ngộ như vợ con thì việc đó quả thực là khó khăn.

Đáp: Trước khi đức Phật đi tu, đạo Phật chưa có, vì thế hễ ai muốn tu hành là bỏ cha mẹ, vợ con. Đời đã khổ, nước mắt của chúng sanh nhiều như nước biển, đã khóc vì bao nỗi chia ly sanh tử, bao nỗi cay đắng của cuộc đời. Thế mà, một người muốn tu giải thoát mà lại tạo ra nỗi đau thương cay đắng chia lìa cho bao người thân thương. Cha mẹ sầu nhớ thương con, vợ mong chồng, con nhớ cha, v.v..

Rút ra từ kinh nghiệm bản thân của mình, đức Phật dựng giáo pháp của mình trên một nền tảng đạo đức không làm khổ mình, khổ người.

Có nhiều gương hạnh Thánh tăng và Thánh ni sau khi xuất gia tu hành đều bị sự ngang trái này. Bà Dhama khi được biết đạo Phật bà xin chồng xuất gia, nhưng người chồng không bằng lòng, bà phải chờ đến khi chồng mất mới xuất gia (từ 25 tuổi đến 75 tuổi).

Ratthapala đến xin đức Phật xuất gia: “Này Rattapala, ông có được cha mẹ bằng lòng xuất gia hay chưa?”.

- “Bạch Thế Tôn! Con chưa được cha mẹ bằng lòng cho con xuất gia”.

- “Này Ratthapala, Như Lai không có cho ai xuất gia nếu không được cha mẹ bằng lòng”.

Đây, Thầy trích một đoạn trong Trung Bộ Kinh Tập II để xác chứng đạo Phật ra đời có một nền đạo đức tuyệt vời, không phải vì ích kỷ cá nhân của mình “giải thoát” mà đem đến sự đau khổ cho người khác.

Vì thế khi nàng Gia Du Đà La dẫn con là La Hầu La đến xin Phật ban cho những gì cao quý nhất. Đối với đức Phật hiện giờ, cái gì cao quý nhất, chắc không phải là ngai vàng, ngôi báu mà là sự giải thoát sanh, già, bệnh, chết, chấm dứt luân hồi, cho nên nắm lấy tay La Hầu La và ban cho con đường giải thoát. Sau này Gia Du Đà La cũng tu hành chứng quả A La Hán.

Người tu theo đạo Phật mà không hiểu đạo Phật và giáo lý, biến đạo đức của đạo Phật thành một tôn giáo có một nền đạo đức mê tín (nhân quả luân hồi).

Do chỗ lầm lạc này không ai thấy được đạo đức nhân bản - nhân quả của đạo Phật.

Vì thế, ai thất tình, thất vọng, giận cha, mắng mẹ hoặc gia đình bất an cùng sự ham tu giải thoát mà quên đi đạo làm người.

Theo đạo Phật, trước khi làm bậc Thánh tăng giải thoát ra khỏi cuộc đời đau khổ này là phải làm con người có đạo đức nhân bản: “Không làm khổ mình khổ người”.

Khi đạo Phật xuất hiện trên hành tinh này, Ngài đã phá thế giới siêu hình, cúng bái, tế lễ, cầu khẩn van xin. Ngài đập sạch xuống có thế giới siêu hình còn có sự bất công. Nhưng thế giới siêu hình không có, thì lại là một tai hại rất lớn cho loài người.

Tại sao vậy?

Tại vì trên đầu con người không có thần linh ban phước, giáng họa thì con người sẽ hung ác, giết hại lẫn nhau như loài cầm thú, vì chẳng còn sợ ai cả.

Vì vậy, muốn đập phá thế giới siêu hình thì trước tiên phải thành lập một nền đạo đức “nhân bản - nhân quả”, thì con người sẽ thuần hóa nền đạo đức đó, mới đúng nghĩa là con người. Nhờ đạo đức đó, con người mới thoát ra cái bản chất cầm thú của nó.

Như các con đã biết “nước chảy đá mòn”. Người thông hiểu đạo đức nhân quả là người biết sống nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng trong mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng, dù cho đối tượng nào, hoàn cảnh nào, họ cũng đều vượt qua bằng đôi mắt và trí tuệ nhân quả, cho nên gọi là: “Luật nhân quả chuyển hóa do mình tạo duyên”.

Cái gì đúng là phải đúng, cái gì sai là phải sai, không thể lấy cái đúng làm cái sai và lấy cái sai làm cái đúng được.

Bởi vậy, con người được trang bị một trí tuệ nhân quả đầy đủ, dù người đó đang mặc chiếc áo cư sĩ, họ vẫn lìa khỏi tam độc “Tham, sân, si”. Đạo đức nhân quả là đạo đức không làm khổ mình, khổ người thì làm sao còn tham sân si được. Còn tham sân si tức là còn ác pháp, còn ác pháp tức là còn làm khổ mình, khổ người.

Hiện giờ, các con đã thấy bao nhiêu người “xuất gia” làm đến chức Hòa thượng, Thượng tọa mà còn tham sân si không mất chút nào? Đâu phải xuất gia là hết tham sân si? Nếu không trang bị cho họ bằng một trí tuệ đạo đức nhân quả thì suốt kiếp tu hành của họ chẳng bao giờ hết tham sân si.

Đệ tử của Phật chia làm hai giới: Xuất gia và tại gia. Nếu không chuẩn bị những pháp môn tu hành của người “tại gia” mà vội bước vào cửa người “xuất gia” thì sự tu hành đó mất căn bản. Hiện giờ, các con xem giới “xuất gia” đạo chẳng ra đạo, đời chẳng ra đời, phải không các con?

Các con tu theo đạo Phật, các con có muốn tu hành như vậy không?

Tu như vậy, chỉ là một hình thức, chiếc áo và cái đầu trọc chẳng có ý nghĩa gì cả, lại còn tạo ra chuyện mê tín lạc hậu, buôn thần bán thánh; lại còn gạt tín đồ, kêu gọi mọi người đóng góp tiền của để tạo danh “từ thiện” cho cá nhân mình “biết thương người”.

Nhưng sự thật họ chưa chắc đã thương người, chính họ, họ còn không thương họ huống hồ là thương ai. Nếu thương họ sao phải giận dữ như vậy? Tức tối như vậy? Ganh tỵ như vậy?

Biết vợ con như vậy là khó khăn, nếu không khắc phục được vợ con, không khiến nó được giác ngộ, phỏng chừng mình có khiến tâm mình giác ngộ hay không?

Cái khó của vợ con không bằng cái khó của sự tu tập làm chủ sanh tử luân hồi.

Cái khó của vợ con không bằng cái khó của tâm mình:

Ratthapala không được cha mẹ cho đi tu, Ngài tìm mọi cách khắc phục cha mẹ và cuối cùng mẹ cùng cha phải đồng ý cho Ngài đi tu.

Đó là sự khắc phục tạo duyên để đi tu, cho nên Thầy bảo: “Có quyết tâm, có nghị lực, có gan dạ, có bền chí, nhẫn nại, có tùy thuận, có nhẫn nhục, có bằng lòng và cuối cùng mọi việc phải giải quyết bằng trí tuệ nhân quả”. Đó là cách tạo duyên chuyển nghiệp để tiến lên đường giải thoát, tức là cách thức cởi bỏ lưới đời thế tục, bằng sự tu tập trí tuệ nhân quả: “Cắt ái ly gia”.

Còn nghĩ như con chỉ là một sự trốn chạy cuộc đời. Qua kinh nghiệm bản thân của đức Phật, Ngài thấy việc mình đã làm là sai lệch, trốn bỏ cha mẹ vợ con, tu tập các pháp của ngoại đạo, tiết thực tối đa đến đổi thân xác kiệt quệ không đứng dậy được.

Sau khi tìm ra pháp màu vi diệu giải thoát kiếp làm người đầy đau khổ này, Ngài thấy rõ pháp môn giải khổ cho con người phải là một pháp môn đạo đức nhân bản - nhân quả “Không làm khổ mình, khổ người” ngay từ lúc bắt đầu mới tu. Vì thế, đạo Phật ra đời Ngài áp dụng ngay liền, khi người nào xuất gia phải có sự đồng ý của gia đình. Đừng chạy theo các giáo pháp của ngoại đạo đi tìm cầu sự giải thoát mà làm đau khổ những người thân thương của mình thì không đúng giáo pháp giải thoát.

Giải thoát là giải thoát duyên nghiệp ràng buộc mà đã giải thoát sao lại làm khổ người? Giải thoát là không làm khổ mình, khổ người mới gọi là giải thoát, do thế pháp môn của Phật dạy tu tập gọi là: sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Đức Phật nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả. Tùy theo duyên chúng sanh hướng dẫn tu tập chuyển nhân quả, chớ không hướng dẫn trốn nhân quả.

Do đó, người được cha mẹ vợ con đồng ý cho xuất gia là duyên nhân quả thuận (nhân quả thiện), đủ duyên; người không được cha mẹ vợ con cho xuất gia là nhân quả nghịch, thiếu duyên.

Con đã biết nhân quả chuyển được, nhưng chuyển bằng cách nào? Như con đã nói: “Người bạn đời chưa giác ngộ. Chuyển bằng cách cho vợ mình thấy đời là khổ, sanh tử vô thường, thân này giòn bở như đồ gốm dễ bể”.

Giận hờn phiền não bất toại nguyện, già, bệnh, chết, không ai thay thế cho ai được.

Mọi hoàn cảnh xảy ra trong gia đình đều theo luật nhân quả, con nên chỉ vạch cho thấy cuộc sống con người là khổ và con còn chỉ cho thấy phương pháp, cách thức tu tập của đạo Phật cụ thể giúp người, giúp mình giải thoát.

Với việc làm này đòi hỏi ở sự nhẫn nhục, bền chí và kiên trì thì sẽ chuyển được tức là tạo duyên tu hành cho mình mà còn tạo duyên cho những người thân.

Bởi vậy, đạo Phật lấy đạo đức nhân bản - nhân quả để đưa con người từ khổ đau đến giải thoát; từ bất hòa đến hòa hợp; từ hung ác đến hiền lành; từ gian xảo đến thành thật; từ ghét bỏ đến thương yêu; từ hận thù đến tha thứ, v.v..

Đời sống xuất gia tu không khó, đời sống tại gia tu rất khó, nhưng người nào tránh tu tại gia (ly dục ly ác pháp) mà tu xuất gia thì rất khó ly dục ly ác pháp vì thiếu đối tượng, cho nên tu chỉ ức chế tâm vào định mà định ấy không phải là chánh định, nó là tà định.

Người tu tà định, dẫu tu trăm ngàn kiếp vẫn không thể làm chủ sanh tử luân hồi.

Đường lối tu tập của đạo Phật là xả tâm ly dục, diệt ngã.

Đường lối tu tập của ngoại đạo, Đại Thừa và Thiền Đông Độ do ức chế tâm mà vào định, định ấy là định tưởng (tà định).

Hai đường lối tu tập này khác nhau rất xa, nên kết quả cũng không giống nhau, bên xả tâm, bên ức chế tâm.

Hoàn cảnh gia duyên của con như vậy mà xuất gia tu hành là ức chế tâm. Ngược lại sống tại gia đình, ăn uống ngủ nghỉ tập dần buông xả, thiểu dục tri túc sống đúng phạm hạnh, biết nhẫn nhục, tùy thuận, không làm buồn khổ vợ con, cha mẹ, giữ hạnh thanh tịnh, tránh xa dâm dục khiến vợ con thức tỉnh.

Rút ra từ kinh nghiệm bản thân của mình, đức Phật đã thành lập một giáo pháp có đầy đủ một đạo đức giải thoát khổ đau của con người rất là tuyệt vời.

Do đó, đường lối tu hành của đạo Phật rất thực tế và cụ thể, giải thoát con người, không có mơ hồ trừu tượng.

Thầy rất tin tưởng ở con sẽ là người chiến thắng mọi hoàn cảnh, đem lại sự an vui cho những người thân thương của mình bằng đạo đức nhân quả mà đạo Phật và con đường tu của con chỉ trong kiếp này sẽ được toại nguyện.

Vì biết sống đúng đạo đức nhân quả, đem lại sự an vui cho mình, cho người, đó chính là ly dục ly ác pháp; đó chính là thiền định của đạo Phật; đó chính là đạo giải thoát cho mình, cho người; đó chính là đạo đức nhân bản của loài người mà từ lâu đã bị lục sư ngoại đạo dìm mất (Đại Thừa giáo).

Hơn 20 thế kỷ, con người trên hành tinh này đã chịu thiệt thòi quá lớn, vì đã đánh mất đi một nền đạo đức nhân bản tuyệt vời.

Vì thiếu đạo đức, con người đã xâu xé nhau chẳng khác gì loài vật, nên khắp thế giới năm châu, không nước này chiến tranh thì nước khác, con người giết con người hàng loạt. Thật là đau thương!

Cuộc chiến tranh giải phóng quê hương, đất nước Việt Nam, biết bao nhiêu xương máu của dân tộc này đã đổ; biết bao nhiêu sự tang thương mất mát mà chiến tranh đã để lại cho họ. Giờ này vết thương đau kia cũng chưa xóa sạch, chỉ vì loài người thiếu đạo đức, sống ích kỷ, sống cho mình, chẳng nghĩ gì cho ai.

Thích Thông Lạc

Xem thêm>>

Xem thêm>>

Đóng liên hệ [x]
hotline0906 18 40 60
-->