![]() |
Người ngoài hành tinh ở dưới lòng đất |
Agartha (hoặc Shambalah, Shangri-La), ở
Ấn Độ các bậc Đạo sư gọi bằng từ “Patala”; nó là tên của một thành phố
huyền thoại nằm bên dưới trái đất, xuất phát từ niềm tin vào giả thuyết
trái đất rỗng và có sự tồn tại một thế giới vô hình của khoa tôn giáo bí
truyền.
Theo các nhà nhà văn của trường phái
viễn tưởng thì cư dân của thành phố này không hẵn là sống trong lòng đất
với các tầng đá nóng chảy, hay trong con tàu vũ trụ được thiết kế đặc
biệt, mà họ tồn tại ở một thế giới chiều thứ tư, hay thứ năm…và nơi đó
có cấu trúc vật chất khác hẵn nơi trú chân của nhân loại chúng ta.
Giả thuyết “Trái đất rỗng” (Hollow
Earth) cho rằng có một mặt trời ở bên trong lòng đất, cùng sự tồn tại
của người ngoài hành tinh, các thành phố, và những nền văn minh bí ẩn.
Nếu có sự liên kết giữa khoa học và viễn tưởng thì biết đâu sẽ có sự
khám phá bất ngờ. Chẳng hạn như các con sông băng nằm ở hai cực, nếu
chúng tan chảy hết thì người ta sẽ tìm thấy con đường đi vào vương quốc
trong lòng đất.
Giả thuyết “Trái đất rỗng” bị các nhà
khoa học địa lý bác bỏ vào cuối thế kỷ 18, nhưng không vì thế mà làm suy
giảm niềm tin vào sự bí ẩn của thiên nhiên và tồn tại một thế lực siêu
hình chi phối hoạt động của người trái đất. Nhiều giả thuyết nói người
ngoài hành tinh không sống ở đâu xa trong vũ trụ, mà họ tồn tại ở bên
lòng trái đất với trình độ khoa học phát triển cực kỳ tinh vi.
Những giả thuyết thời cổ
Thời cổ đại, khái niệm về sự tồn tại một
thế giới khác loài người có ở Hy Lạp, Bắc Âu, thuyết Địa ngục của Kitô
giám, thuyết Âm ty của người Do Thái (với các tác phẩm của Zohar và
Hesed L’Avraham).
Năm 1692, Edmond Halley đưa ra giả
thuyết Trái đất gồm có lớp vỏ rỗng dày 800km, và hai hành tinh bên trong
có đường kính gần bằng sao Kim, sao Hỏa, hay sao Thủy. Mỗi hành tinh
trong trái đất có từng loại khí riêng, và quay với tốc độ khác nhau. Lớp
khí bên trong sáng như dạ quang và khi thoát ra bên ngoài vỏ trái đất
tạo ra hiện tượng Bắc Cực quang (ánh sáng nhiều màu thường thấy trên bầu
trời Bắc Cực).
De Camp và Ley cũng đưa ra giả thuyết
Trái đất rỗng và bên trong có hành tinh khác, một mặt trời ở bên trong
có đường kính khoảng 1,000m và một nền văn minh phát triển.
Năm 1818, John Cleves Symmes cho rằng
Trái đất ba gồm một lớp vỏ dày 1,300 km và khối rỗng bên trong khoảng
2,300 km, có tồn tại 4 lục địa và đường vào vương quốc này chính là ở
hai đầu cực của địa cầu. Symmes là người nổi tiếng nhất trong số những
học giả đưa ra thuyết “Trái đất rỗng”, ông từng đứng đầu nhóm có dự định
thám hiểm Bắc Cực để tìm đường vào lòng đất, nhưng sau đó bị tân Tổng
thống Hoa Kỳ, Andrew Jackson, ra lệnh đình chỉ cuộc khảo sát.
![]() |
Có một mặt trời ở trung tâm, và các lục địa xung quanh nó |
Mặc dù bản thân Symmes chưa từng viết
một cuốn sách nào về thuyết “Trái đất rỗng” nhưng nhiều tác giả đã lấy
cảm hứng từ ý tưởng của ông để viết sách, như McBride với cuốn “Theory
of Concentric Spheres” xuất bản năm 1826, hay Reynolds với bài viết “Mấy
điều quan trọng của thuyết Symmes” xuất bản trên tạp chí American
Quarterly Review.
Jeremiah Reynolds cũng từng tin vào giả
thuyết này và đã tổ chức một cuộc thám hiển đi Nam Cực nhưng lại không
tham gia vào đoàn thám hiểm Great U.S. Exploring Expedition của Mỹ –
những người tin vào lập luận của ông – vào năm 1883-1842.
Năm 1868, Giáo sư W.F. Lyons xuất bản
cuốn “The Hollow Globe” với ý tưởng cùng giả thuyết của Symmes, nhưng
không nhắc gì tới đề xuất trước đây của Symmes. Sau đó con trai Symmes,
Americus cũng đã cho ra đời quyển “The Symmes’ Theory of Concentric
Spheres”, nhắc lại những công bố của cha mình khi còn sống.
Adolf Hitler và công trình xuyên lòng đất
Adolf Hitler đã từng lập ra hội Thule
nhằm nghiên cứu và cho tiến hành xây dựng ở Nam Cực một con đường vào
lòng đất theo giả thuyết của người Tây Tạng.
Năm 1944, Đô đốc Dönitz có bài phát biểu
trước hạm đội tàu ngầm của Đức quốc xã rằng, người Đức vô cùng tự hào
khi đã xây dựng cho Đức quốc trưởng một pháo đài vô hình, và ông ấy muốn
đi mọi nơi trên trái đất này một cách tùy thích. Sau đó, trong phiên
tòa xét xử tại Nürnberg, Dönitz đã xác nhận người Đức có xây dựng một
pháo đào ở giữa lớp băng đá.
Có lẽ Hitler muốn tạo ra một đội quân
thần tốc kiểu như người Atlantis xưa, và ông ta chẳng có phương pháp nào
ngoài việc tin vào các truyền thuyết? Thậm chí một số giả thuyết còn
cho biết thêm, vào những ngày cuối cùng khi bại trận hoàn toàn, Hitler
và các thành viên tín cẩn đã đào tẩu bằng cánh cửa ngầm ở Nam Cực, nơi
người Đức từng bỏ công xây dựng.
![]() |
Đường vào vương quốc dưới lòng đất nằm ở hai cực |
Hội nghiên cứu “Trái đất rỗng” ở
Ontario, Canada, tin rằng cánh cửa này đến nay vẫn còn tồn tại. Sau
chiến tranh, quân Đồng Minh phát hiện có hơn 2,000 nhà khoa học người
Đức và Ý đã biến mất cùng với gần một triệu người đang làm việc ở Nam
Cực. Câu chuyện ngày càng kỳ bí hơn với thông tin “rò rĩ”, các đĩa bay
hoàn thiện do Đức quốc xã thiết kế được người trong lòng đất bày vẻ.
Vào năm 2005, nhóm Steven Currey
Expeditions đã đi Bắc Cực với mục đích khám phá con đường bí mật vào
lòng đất. Sau đó người đứng đầu của nhóm đã có cuộc nói chuyện với nhà
văn Brooks A. Agnew, cùng hơn 100 nhà khoa học, và các nhà làm phim
trong năm 2009.
Đầu thế kỷ XX, William Reed trong quyển
sách “Phantom of the Poles” xuất bản năm 1906, cũng ủng hộ lý thuyết
“Trái đất rỗng” nhưng ông tin bên trong lòng đất không tồn tại lục địa
hay mặt trời.
Năm 1913, nhà văn Marshall Gardner viết
quyển “A Journey to the Earth’s Interior” với niềm tin có một mặt trời ở
trong lòng đất, thậm chí ông còn đăng ký quyền sở hữu ý tưởng đầy táo
bạo của mình. Gardner không nhắc gì đến những người đưa giả thuyết “Trái
đất rỗng” trước mình như Reed, hay Symmes. Cũng trong thời gian này nhà
văn Vladimir Obruchev cũng viết quyển tiểu thuyết với nội dung bên
trong lòng đất có một mặt trời, tồn tại sự sống, và lối vào là một con
đường ở Bắc Cực.
Còn nhiều nhà văn khác với giả thuyết
đường vào lòng đất nằm ở các vị trí như Tây Tạng, Peru, vùng núi ở
California…Họ ủng hộ niềm tin ở dưới lòng đất tồn tại một cảnh giới
thuộc chiều không gian thứ tư, hay đó chính là quê hương của các UFO
thường hay xuất hiện trên trái đất xưa nay.
Giả thuyết của các tôn giáo
Trong Thiên Chúa giáo, giả thuyết về thế
giới vô hình được George Willis Emerson (1856-1918) đưa ra trong quyển
“The Smoky God (1908)”, với lời kể chuyện của thủy thủ người Na Uy, Olaf
Jansen. Tác phẩm đề cập đến hành trình của Jansen đến Bắc Cực và tìm ra
một con đường bí ẩn xuyên được vào tâm Trái đất. Trong hai năm ông ta
sống cùng người trong lòng đất, họ có chiều cao 12 feet, thế giới đó
trùm phủ một màn sương, và trung tâm thành phố có tên “vườn Eden”.
Emerson không sử dụng cái tên “Agartha” quen thuộc, mà ông dùng từ
“Agarthan” khi cho rằng họ có sự giao thoa giữa hai nền văn minh Jansen
và Agartha.
Theo các giáo lý bí truyền, Shamballa là
thủ đô của vương quốc trong lòng đất, là một trong số các hành tinh nhỏ
tồn tại nhờ hệ sinh thái nằm ngay dưới lớp vỏ Trái đất hoặc ẩn trong
các ngọn núi lớn. Những trận đại hồng thủy và chiến tranh diễn ra trong
quá khứ đã vùi nhiều lục địa xuống bên dưới vương quốc này, như trận
chiến kinh hoàng có sử dụng bom nguyên tử giữa người Atlantis và người
Lemuria khi xưa. Các sa mạc Sahara, Gobi, Outback, và phía Tây Nam nước
Mỹ được cho là còn lưu lại tàn tích xây dựng nhân tạo. Các lục địa bên
trong lòng đất dùng để lưu trữ các kinh văn cổ, tài liệu công nghệ khoa
học… có từ thời khai thiên lập địa.
Nhiều giả thuyết nói, trung tâm lục địa
Lemuria nằm ở sa mạc Gobi (Mông Cổ) đã bị người Atlantis phá hủy bằng
bom nhiệt hạch, và chỉ còn hai đô thị vệ tinh là Agartha Alpha và Beta
là may mắn thoát khỏi sự hủy diệt.
Cư dân Agartha được xem là có kiến thức
khoa học và tâm linh vượt xa người sống trên bề mặt Trái đất, và hiện
nay họ sống hòa bình trong lòng đất và tránh mọi sự liên can đến con
người chúng ta.
![]() |
Mô hình thế giới Agartha |
Các giả
thuyết của tôn giáo nói không có con đường vào lòng đất bằng công nghệ
khoa học, nó nằm ngoài sự hiểu biết của chúng ta hiện nay.
Người Tây Tạng tin Agartha hay Shambala
là tàng thư lưu trữ kinh sách cổ xưa và đường vào nằm ở dưới đáy các
dòng sông, ao hồ… tại đó có một hang động cổ đại và nhiều nhánh phụ dẫn
đi khắp các lục địa châu Á và thậm chí còn cho phép đi xa hơn thế nữa.
Patala và truyền thuyết của người Hindu
Trong trường ca Ramayana nổi tiếng của
người Hindu có kể về câu chuyện vị hóa thân Rama, người đến từ vương
quốc Agartha. Hay những truyền thuyết về cuộc chiến với các chiến binh
Agharta, những người có trình độ kỷ thuật cao, cũng như tính khí ngạo
nghễ với loài người.
Người Ấn tin đường vào vương quốc
Bhogavati nằm ở đâu đó trong dãy Himalaya, và nó được đặt ở Patala (hay
Patal), tức bảy vùng thấp của vũ trụ, là nơi trú ngụ của rắn Nagas,
Danavas (con của quỷ Danu), Daityas (con quỷ của Diti) và Yakshas.
Người Hindu phân vũ trụ ra làm ba thế giới: Svarga – bảy tầng trời, Prithvi – cõi trần, và Patala – thế giới dưới lòng đất.
Kinh Purana có viết về chuyến thăm của
Thánh Narada đến Patala, Ngài mô tả nơi đây đẹp hơn cõi trời (Svarga),
với nhiều đồ trang sức lộng lẫy, cây cối xanh tươi, hồ nước như ngọc
bích, và những yêu nữ xin đẹp. Không khí phảng phất hương thơm ngào
ngạt, đất chỉ có màu trắng, đen, tím; cát vàng, và đá giống như vàng.
Kinh Purana Bhagavata gọi đó là thiên
đường trong lòng đất, và chúng được coi là hành tinh hay chuổi hành
tinh. Nơi đây có nhiều vùng đất được mô tả với sự giàu có, niềm vui
sướng, không có sự thù hằn, không có tuổi già, không có lao động, không
có bệnh tật và đẹp hơn bất cứ nơi nào trong vũ trụ, gồm cả cõi thiên. Dù
không có ánh mặt trời ở các cõi thấp hơn nhưng bóng tối bị xua tan bởi
vàng bạc châu báu có ở Patala
![]() |
Rắn Naga sống ở cõi thấp Patala, gọi là Naga-loka |
Cũng theo kinh Purana, Patala nằm bên
dưới mặt đất khoảng 70 ngàn Yojanas (một đơn vị đo), các cõi từ cao
xuống thấp có tên là Atala, Vitala, Sutala, Talatala, Mahatala, Rasatala
và Patala.
Theo: https://dobatnhi.wordpress.com/2011/02/16/agartha-huyen-thoai-ve-nhung-thanh-pho-trong-long-dat/
http://tanmy.com.vn/?view=detail&id=806
Bài viết được đăng bởi http://www.zeronews.us